TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN:
Đêm làng Trọng Nhân - NXB.QĐND (1998),
Những người ở bến sông Châu - NXB Hội nhà văn (2001),
Trong cơn Đại hồng thủy - NXB.QĐND (2002),
Mười ba bến nước - NXB Thanh niên (2005)…
GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC:
Giải thưởng truyện ngắn tạp chí VNQĐ năm 1996. Giải thưởng truyện ngắn mang tên Cây bút vàng của tạp chí Văn hóa Văn nghệ Công an (1998 - 2001). Giải thưởng bút ký - Đài Tiếng nói Việt Nam năm 2003. Giải thưởng truyện ngắn Nxb Thanh Niên (2004). Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng (2004). Giải thưởng truyện ngắn Nxb Giáo dục (2004)...
Mười ba bến nước
1.
Tôi lấy vợ mới cho chồng.
Một chuyện lạ chưa từng xảy ra ở làng Yên Hạ. Cô dâu là bạn thân của tôi đã quá lứa lỡ thì. Cô ấy đang cần tấm chồng và khao khát một đứa con hợp pháp. Tôi làm bà mối, tôi cùng nhà trai đi ăn hỏi, đi xin cưới, đi rước dâu.
Đám cưới có vui, có buồn, có sượng sùng. Và đúng lúc cô dâu mới vào buồng hạnh phúc thì tôi lặng lẽ ra lối cửa sau đi tắt qua vườn. Túi đồ ôm vào lòng, vừa đi vừa khóc, tôi chạy cùn cụt ra bến nước, ới đò sang sông về nhà với mẹ.
Người ta ví: Con gái mười hai bến nước. Tôi khốn nạn hơn những người đàn bà khác. Tôi những mười ba bến nước.
2.
Tôi sinh nở lần đầu vào một buổi trưa.
Tháng năm âm lịch, cuối vụ gặt, tôi đem cơm ra đồng cho thợ. Cào cào, muồm muỗm dồn đến đám lúa cuối cùng nhiều quá. Thợ gặt bỏ liềm hái vồ tới tấp. Tôi cũng đạp gốc rạ lội sọp sọp đến chộp. Tự nhiên, bụng đau lâm râm, rồi cồn lên đau dữ dội. Tôi vội bỏ nắm cào cào đã vặt càng vào nón và ôm bụng. Chưa kịp lên bờ thì ối vỡ, nước ối chảy ướt sũng hai ống quần. Tôi ới chồng. Anh bỏ đon lúa đang bó dở, hốt hoảng chạy đến bế tôi lên bờ. Mẹ chồng tôi quýnh quáng sai đứa cháu gọi bà đỡ đẻ. Nhưng không kịp, tôi đẻ ngay trên bờ ruộng ẩm ướt ngổn ngang lúa tươi và cuống rạ vừa cắt.
“ối giời cao... đất dày ơi...ời!” Mẹ chồng tôi gào lên và xỉu ngay bên đon lúa. Tôi chỉ kịp cố gồng sức ngẩng lên nhìn xuống giữa hai háng mình, rồi ngật đầu sang một bên.
Mãi mãi, không bao giờ tôi quên được tiếng mẹ chồng kêu và cái cục thịt tôi đã đẻ ra ấy. Mẹ chồng tôi líu lưỡi, giọng hoảng loạn, kinh hoàng. Cục thịt đỏ hỏn chỉ có cái miệng tròn tối om, há ra ngậm vào như cá mắc cạn ngáp lúc sắp chết. Thợ gặt chân tay xước sát lấm bùn đất, đứng, quỳ châu quanh tôi. “Về lấy cái liễn sành, bỏ Nó vào đem đến gò Mã Giáng mà chôn.” Tiếng người láo pháo. “Đừng... Đặt Nó lên bè chuối cho trôi sông.” Và xa gần bước chân đạp trên gốc rạ lẫn tiếng lội nước gấp gáp ọp ọp.
Tôi không ra khỏi nhà. Lúc nào mắt cũng đỏ hoe. Chồng tôi ít nói. Anh lầm lì, nâng giấc, săn sóc tôi như chăm bẵm con nhỏ. Mẹ chồng tôi nhìn con dâu tiều tụy quá, nước mắt bà ứa ra. Mẹ chồng rất thương tôi, mẹ chồng nàng dâu mà y như mẹ đẻ và con gái. Tôi vừa nấc vừa nói, giống hệt đứa bé gái ngoan bị đòn oan:
- Bu ơi! Sao ... con... đến nỗi này?
Mẹ chồng tôi thở dài:
- Nhà ta đời đời ăn ở hiền lành, có ác với ai bao giờ đâu mà để tội để nợ cho con!
Chồng tôi đang xách siêu thuốc bắc. Anh giật mình, đánh rơi bộp xuống nền nhà. Siêu vỡ, nước thuốc vàng sẫm chảy lênh láng, hơi nước bốc khói mù mịt.
Tôi thường mất ngủ. Trong giấc mơ đêm tối trời, tôi thấy đám thợ gặt đội nón mê, ngồi bệt xuống cỏ hút thuốc lào chờ cho Nó hết ngáp. Rồi họ bỏ Nó vào cái liễn sành màu da lươn, đậy nắp đem đến gò Mã Giáng chôn. Lại có đêm tôi mơ thấy Nó trên bè chuối thả trôi ở bến nước sông Hoàng Long. Và con Thuồng Luồng tóc đen dài xoã sượi, vai trần trắng, vú căng mẩy như vú con gái, nhưng mình rắn, bàn chân tay nhái có màng mỏng bơi đến đẩy bè chuối vào bờ. Tôi vùng vẫy, hò hét: “Trả con tôi. Trả con tôi đây...” Tỉnh dậy, mới biết mình trong vòng tay chồng. Người lạnh toát, mồ hôi vã ra. Vai áo chồng cũng đẫm mồ hôi, anh đã rất vất vả giữ tay chân vợ vùng vẫy khi mơ...
3.
Tôi nhớ, mùa hè năm Giáp Thìn. Trời không mưa, nhưng nước thượng nguồn đổ về một tuần liền. Quê tôi lụt to. Nước cuốn rều rác, cành tươi, củi khô... cuồn cuộn. Nửa đêm, vỡ đê sông Hoàng Long. Nước réo ồ ồ. Chó tru. Gà quác. Trâu, bò phá gióng. Dê phá chuồng kêu khản giọng. Dân kinh hoàng, nháo nhác chạy lụt như chạy loạn. Tôi kịp trèo lên cây đa đầu làng. Suốt đêm ở ngọn cây, gọi mẹ ời ời; lo lũ cuốn thì ít, lo con Thuồng Luồng bắt kéo xuống nước thì nhiều.
Đêm trăng suông. Cây đa gồng mình chống chọi lũ xiết. Tôi đói, kiệt sức. Nửa đêm, nước xói bật gốc cây đa, tôi bị lũ cuốn theo.
Sáng hôm sau, tỉnh dậy, thấy mình nằm trơ trơ trên gò Thuồng Luồng. Xung quanh nước réo ùng ục. Đám đông đứng ngồi lố nhố. Tiếng người nói lao phao. Con Vện cắn nhanh nhách, nghe sốt ruột. Mẹ tôi cười mếu máo, bảo: “Con Thuồng Luồng vớt mày ở bến nước đưa lên đây đấy, con ạ”. Tôi ngạc nhiên quá...
Năm tôi mười sáu tuổi, có ông giáo sư sử học dẫn sinh viên về điền dã ở làng tôi. Họ thuê bọn đánh dậm chúng tôi đến đào đất khai quật gò con Thuồng Luồng. Tôi nhận ra anh Tào người làng Yên Hạ trong số người lạ này. Anh Tào có vẻ rất mến và hay trêu đùa tôi. Đào, bới, cả tuần chẳng có gì chỉ thấy vỏ hà vỏ hến, xương động vật và một tấm ván thôi. Lúc lấp đất, anh Tào cầm nộm rơm giống hình con gái quẳng xuống hố. Tôi hỏi: “Anh Tào làm cái gì đấy?” “Tao yểm. Đó là cốt đứa con gái, hồn con Thuồng Luồng. Đứa nào yêu tao mà bỏ thì phát điên, thành con Thuồng Luồng.” Những người lạ bật cười. Còn tôi vừa ngượng chín mặt vừa ngơ ngác. Về sau, yêu nhau rồi, tôi hỏi về cái nộm rơm ấy, anh chỉ cười cười bí ẩn, không nói.
Lại ồn: Vào một đêm trăng. Sương mù bay la đà mặt sông. Sóng óc ách vỗ vào hang núi. Thằng ăn trộm người làng Yên Hạ về khuya, đò nghỉ. Hắn định cởi áo, đội gói đồ ăn trộm lên đầu, bơi qua sông thì thuyền đánh cá đêm chở đầy sương mù chui từ trong hang nước ra, lướt nhẹ đến. Cô gái khoác hờ cái áo, ngồi phía đuôi thuyền, bảo: “Anh lên đi. Tôi chở qua sông cho.” Thằng trộm ôm đồ nhảy xuống thuyền. Ra giữa sông vắng vẻ, thấy thuyền chỉ một mình cô gái, hắn dở trò sàm sỡ. Cô gái nhảy tòm xuống sông. Thằng trộm kịp nhận ra cô gái chỉ có phần ngực trở lên là giống người, còn thân mình rắn, bàn chân tay nhái có màng. Hoảng quá, hắn biết vừa chạm phải con Thuồng Luồng. Chưa biết xoay sở ra sao thì cô gái nhô cả vai trần và bầu vú lên khỏi nước. Đôi tay nhái bám lệch mạn thuyền. Nước ào vào, thuyền đắm. Thằng ăn trộm bị dìm uống no nước sông, rồi được đẩy lên bờ. Run quá, hắn co chân chạy thì tiếng gọi giật sau lưng: “Anh gì ơi! Của anh này.” Hắn quay lại. Vẫn cô gái ban nãy. Nhưng mặc gọn gẽ, áo khô, quần khô sắn tận gối lộ bắp chân tròn trắng. Gói đồ hắn thó trộm bỏ quên dưới thuyền cũng khô nguyên, cô ta đưa cho hắn rồi chèo thuyền chui luôn vào sương mù. Chẳng thấy con Thuồng Luồng đâu. Hãi quá! Từ đêm đó, thằng trộm mất hồn, ngơ ngẩn nửa năm...
Thuồng Luồng và bến nước như làn sương mù huyền thoại, bí ẩn vô cùng với tuổi thơ tôi.
4.
Chồng tôi tên là Lãng, bộ đội thời chiến nghỉ phép trước ngày ra mặt trận. Anh chưa muốn cưới vợ, những ngày đầu đi chơi loăng quăng, gần hết phép, mẹ giục quá mới nháo nhào tìm. Lúc đó, tôi chưa hết buồn vì tin người yêu chết ở chiến trường thì gặp anh.
Đám rước dâu bằng thuyền. Cập bến, mọi người lên bờ, đứng chờ tôi lấy nậm nước đem về rửa chân mẹ chồng. Cái lệ này có từ bao giờ tôi chẳng biết. Người ta bảo: Mẹ chồng nàng dâu vốn truyền đời xung khắc. Con dâu mới múc nước rửa chân mẹ chồng để lấy lòng. Trước lúc rước dâu, mẹ tôi đưa cho cái nậm nhỏ làm bằng vỏ quả bầu be khô giống cái hồ lô và dặn những điều cần thiết về làm dâu nhà người.
Người ta hay ví bến đời với bến nước. Con gái mười hai bến nước. Lúc ấy, tôi chẳng biết mình đang ở bến thứ bao nhiêu.
Đám rước dâu đi tiếp. Bất chợt, mọi người giật mình và ồn ào bởi tiếng hô:“Thanh niên cả như tôi thì mất nước.” Tôi nhận ra anh Tào. Trước ngực anh đeo cái mẹt tròn, quét vôi trắng viết dòng chữ: “Tôi là thằng đảo ngũ.” Tôi không tin sau cái mẹt kia là người mình đã từng yêu. Bom đạn mù trời miền Bắc. Cả trường anh đóng cửa, nhập ngũ. Người ta ồn: anh chết nơi bom đạn một năm rồi. Nay họ lại nói: anh sợ chết, ghí đầu nòng súng CKC vào gót chân trái... bắn. Người thì cãi: anh Tào lau súng bị cướp cò. Đơn vị tước quân tịch đuổi, về quê đã mấy ngày rồi. Xã bắt lao động cải tạo đóng gạch. Chiều tối, dân quân giải anh Tào đi dong, bêu khắp làng. Anh Tào chân thọt chấm phẩy đi trước, dân quân khoác súng K44 nòng rỗ đi sau. Lũ trẻ con lốc nhốc theo sau nữa đồng thanh hô lại: “Thanh niên cả như tôi thì mất nước.” Tôi đi bên cạnh chồng, lòng rối bời.
Anh Lãng cưới tôi hôm trước thì ngay hôm sau phải về đơn vị. Anh đi xa không biết ngày nào về. Chồng tôi cố dấu nỗi buồn vào lòng. Anh chào lần lượt từng người rồi quay lưng, đi rất nhanh, như chỉ sợ nấn ná sẽ ở nhà luôn.
5.
Người vợ xa chồng có trăm ngàn cơ cực, chẳng nỗi khổ nào giống nỗi khổ nào. Có những đêm dài ghê gớm, tôi lục sục không ngủ. Nằm một mình ôm gối, nhớ chồng, trằn trọc chờ sáng. Tôi lôi cái áo cũ bạc màu của chồng ra ấp vào mặt, nỗi nhớ càng nôn nao, da diết hơn. Khốn khổ nhất là mấy ngày áp kỳ kiêng kị sử dụng sô màn của đàn bà. Hai bầu vú tôi cứng nhưng nhức. Nhũ hoa sân lại. Má đỏ hồng tươi tắn. Mắt long lanh... Lúc nào cũng chỉ mong chồng về.
Con gái chưa biết hơi trai thì tò mò, dụt dè; nhưng đã phải hơi trai rồi thì nghiện. Đêm đêm, tôi nằm tưởng tượng ra đủ điều, vò gối ấp áo vào mặt tìm hơi chồng. Không chịu nổi lại đổ lúa vào xay, xay đến sáng, hoặc múc nước giếng khơi đổ ào ào tắm cho lửa lòng dịu đi, hoặc sang ngủ chung giường tìm hơi mẹ chồng.
Mẹ chồng tôi biết. Bà đã trải qua những năm tháng chờ chồng nên hiểu lòng con dâu. Mẹ chồng tôi lặng lẽ lục tìm trong hòm lấy quần lót cũ của con trai bỏ vào chã đất rang, tay khoả miệng lẩm bẩm. Bà làm theo cách riêng nhuốm màu sắc dân gian giúp con dâu vững lòng lúc con trai mình đi xa.
Làng Yên Hạ của chồng tôi có hai bến tắm. Bến tắm đàn bà phía đầu nguồn, bến tắm đàn ông phía hạ nguồn, cách nhau vài trăm bước. Bọn con gái cứ để nguyên áo quần dài, lội dò dẫm ra xa bờ, nước đến đâu vén áo đến đó; nước dâng qua bầu ngực thì đội áo lên đầu hoặc cởi ra vo viên ném vèo vào triền sông. Tôi đã gặp chuyện ầm ĩ ở bến tắm này. Bắt đầu từ lúc ông xã đội trưởng và hai dân quân bất chợt nhìn xuống bến thấy đầu tóc con gái loã xoã, vai trần nhô lên tụt xuống. Lại tiếng quẫy nước um ũm và cái đầu đàn ông. Cứ ngỡ Thuồng Luồng quần nhau với người. Té ra là anh Tào với tôi dưới bến nước. Ông xã đội rất ghét những thằng đảo ngũ, hoặc chân thọt, mắt chột, tay khoèo, thấp bé nhẹ cân...không phải ra trận, ở nhà hay chim chuột vợ lính khi họ đang nơi hòn tên mũi đạn. Vợ ông chửa hoang với thằng công nhân lái xà lan. Ông ta căm lắm, chuyên rình bắt gái làng ra bến nói chuyện với thợ thuyền sông nước. Tôi kêu oan:
- Tôi tắm, không may bị chuột rút...
Anh Tào lúng túng, sợ sệt:
- Tôi đánh xe trâu đến đây. Bỗng nghe tiếng người chết đuối kêu cứu...
Ông xã đội nhếch mép, khinh khỉnh:
- Đã phạm tội tự thương, đào ngũ làm mất thành tích năm năm liền “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” của xã nhà; lại vi phạm chính sách hậu phương quân đội, làm người lính ở chiến trường không yên tâm chiến đấu. Còn bịa cả chuyện con Thuồng Luồng. Từ xưa đến nay, ta chỉ nghe chuyện Thuồng Luồng cứu người chứ chưa bao giờ nghe chuyện người cứu Thuồng Luồng. Ta đồ rằng: Thuồng Luồng là đứa con gái nần nẫn này ở dưới nước mày mới nhảy xuống...
Dân quân dẫn anh Tào và “con Thuồng Luồng” là tôi về trụ sở uỷ ban xã lập biên bản. Anh Tào vẫn cởi trần, chỉ mặc quần đùi thập thễnh đi sau. “Con Thuồng Luồng” mặc quần lụa đen ướt dính bết vào đùi, không được mặc áo, trên mình chỉ độc cái xu chiêng ướt sũng nước. Vai “con Thuồng Luồng” trần rờ rỡ dưới trăng. Đang đi, bỗng dưng ông xã đội cho “con Thuồng Luồng” đứng lại mặc áo, rồi thả cho về. Ông bảo: “Nể cái thằng lính đang sống chết ở chiến trường đánh nhau với Mỹ - Ngụy, ta tha.” Tôi đi một đoạn còn nghe ông rủa sau lưng: “Rạc rài. Giống cái là giống bạc tình.”
“Giống cái là giống bạc tình?”. Tôi đã nhìn thấy bờ tre nhà mình: bầu ngựa đực bụng bé trèo lên lưng bầu ngựa cái bụng to. Bầu ngựa đực lẹo xong, mệt quá gác càng, vừa rời lưng bầu ngựa cái, liền nằm ệch ra. Nó bị ngay đôi kiếm nhiều răng cưa của bầu ngựa cái bổ vào bụng và móc ra từng miếng thịt trắng đến tận khi sồi ruột mới thôi. Người ta bảo, loài bò cạp cũng thế. Chúng nó âu yếm, lẹo nhau xong, con đực bao giờ cũng mệt hơn vì bị rút hết sinh khí. Con cái liền quay lại ăn thịt luôn bạn tình.
Tôi chưa nhìn thấy bò cạp cái ăn thịt bò cạp đực bao giờ. Chỉ thấy rắn nước ở đầm Vạc. Khi con cái lột xác, con đực luôn phục ở bên bảo vệ và đi kiếm mồi về nuôi. Lúc con đực lột xác còn bấy dậy, thì con cái dẫn con đực khác về tổ. Chúng làm tình với nhau trước mũi con rắn vừa lột xác. Và chén luôn bạn tình cũ đang bấy bớt, không còn khả năng tự vệ.
Tôi là đàn bà, là giống cái. Người ta cũng coi tôi là giống bạc tình a?
6.
Chiến tranh kết thúc, chồng tôi về. Nguyên vẹn, thân thể không sất síu tí nào. Mừng ơi là mừng. Mẹ con, anh em, vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi bao nhiêu thì anh Lãng hậm hực bấy nhiêu. Không biết bằng cách nào, anh Lãng biết người ta ồn vợ mình trăng gió. Buổi tối, mọi người đến chơi về hết, nhà tôi lẽ ra vui như tết thì lại buồn hơn đám ma. Mẹ chồng bảo:
- Bu không giữ được danh tiếng vợ anh.
Anh đay nghiến:
- Tôi bao nhiêu năm, bom đạn không chết lại chết vì điều tiếng thiên hạ đấy.
Đến lượt tôi, giọng sẽ sàng, nhưng hơi lạnh:
- Em là vợ anh. Chỉ anh mới biết em chung thuỷ hay là không.
Anh Lãng mặt nghệt ra. Rõ ràng anh không ngờ tôi nói thế. Anh chưa biết sẽ định liệu số phận cuộc hôn nhân thời chiến rất mong manh của mình ra sao. Tin vợ hay không là một quyết định không dễ đối với người lính đã nhiều năm xa nhà...
Đêm ấy, cả làng Yên Hạ không ngủ. Trăng sáng lắm. Gió núi thổi về mát rười rượi. Bọn choai choai rủ nhau đi hóng trăng dọc đường làng. Ngoài sông Hoàng Long, đèn sáng đỏ, tiếng gõ cắc... cắc... vào mạn thuyền thúng đánh cá đêm vọng về. Đêm chồng vợ, chúng tôi quấn vào nhau như đôi thuồng luồng quần nhau trong hang nước.
Sáng hôm sau.
Mẹ chồng tôi dậy thật sớm, ngồi ở thềm hè chải tóc, chốc chốc ngóng vào cửa buồng con dâu. Anh Lãng bước ra, se sẽ ngồi bên mẹ:
- Hôm qua, con không kìm lòng thì gây án mạng với thằng Tào đào ngũ rồi, bu ạ. May nhà con nhẫn nhịn. Suýt nữa tan đàn sẻ nghé.
- Anh nói thế nghĩa là làm sao?
- Bu không nhớ a? Ngày trước, con gần gũi nhà con chỉ một đêm rồi đi vào Nam đánh giặc. Cái đêm tân hôn ấy, nhà con đúng kỳ kinh nguyệt. Vợ chồng con chỉ nằm ôm nhau, rồi khóc...
- Anh nói thế nghĩa là đến đêm qua, vợ anh vẫn còn trinh nguyên?
- Vâng! Vẫn là con gái. Vợ con thì con biết chứ.
Mẹ chồng tôi sững sờ, chẳng nói thêm được câu gì. Bà không ngờ con trai và con dâu ở hoàn cảnh oái oăm ấy. Tôi nằm ì trong buồng lúc đó mới ra. Hai tay vấn tóc. Mắt ngời ngời hạnh phúc. Tôi dụt dè ngồi bên mẹ chồng. Lúc đó, bà lại lên tiếng:
- Bu cũng không muốn tin. Nhưng chuyện con dạo ấy thì tình ngay lý gian. Con bỏ qua đừng giận bu, nhá.
- Con không giận ai cả. Con không sợ gì sất. Con chỉ sợ anh Lãng đi đánh giặc không về. Con vừa mất chồng lại chẳng có người minh oan cho con.
7.
Tôi sinh nở lần thứ ba, thứ tư vẫn ra cục thịt đỏ hon hỏn. Mẹ chồng tôi đau buồn, và sợ hãi quá, suốt ngày niệm Phật và đi chùa. Phật vẫn cứ ở đâu đó chưa hiện về phù hộ chúng tôi. Người ta bảo: Trăm cái phúc nhà vợ không bằng cái nợ nhà chồng. Đời đời gia đình chồng tôi ở hiền, nhưng tôi phải gánh nợ. Vậy cái nợ này ở đâu giáng xuống?
Tôi sinh nở lần thứ năm lại là một bọc có nhiều cục thịt đỏ, như thuồng luồng đẻ bọc trứng non. Chúng Nó không phải kiếp người, cũng chẳng phải kiếp ngợm. Nhưng là các hình hài tôi mang nặng, tôi dứt ruột đẻ ra. Đến lúc này, dân làng có người ghẻ lạnh, xa lánh tôi. Tôi mụ mị dở tỉnh dở điên.
Chồng tôi kể lại: Có lần tôi bỏ nhà đi lang thang ra bờ sông Hoàng Long. Rồi nhảy xuống bến nước vớt những đám lục bình hoa tím nổi nênh trôi. Vớt đặt lên bờ rồi lại vớt, chẳng biết để làm gì... Tôi cũng chợt nhớ lần đi ra gò Mã Giáng. Gò vắng lạnh. Dứa dại viền quanh tốt bời bời. Chó hoang chạy lông nhông kiếm ăn, cắn oăng oẳng. Mèo dại mắt xanh lét, lông xơ xác, gừ gừ. Tôi đến góc gò phía Bắc, nơi chôn trẻ con yểu mệnh. Những nấm đất sè sè, nhỏ nhoi. Chẳng biết nấm mộ nào có liễn sành màu da lươn.
Tôi ngẩn ngơ đến vãn chiều.
8.
Đêm nước ròng.
Vợ chồng tôi ra vó bè kéo tôm. Đèn ló sáng lấp loáng. Mắt tôm bắt đèn ánh lên các chấm li ti đỏ đòng đọc. Kéo một lúc được lưng lưng giỏ. Mệt, tôi để cho chồng kéo rồi xách chiếu manh vào lều cỏ. Anh Lãng làm cái lều dưới chân gò Thuồng Luồng để coi vó. Lúc mệt hoặc tôm cá không đi thì gác vó, lên lều đánh một giấc đến tận rạng đông, nghe tiếng láo pháo của người đi chợ sớm mới dậy. Chẳng biết từ bao giờ, người đi chợ, đi kéo vó, mò tôm... qua đây, ai cũng nhón một hòn đất bỏ lên gò. Bao nhiêu đời rồi, gò cứ rộng ra và cao lên như quả đồi con.
Gió nồm hiu hiu. Bốn gọng vó thỉnh thoảng thả chọp... chọp... xuống bến. Mắt tôi díp lại, mơ màng... Nửa đêm về sáng, tôi giật mình bởi tiếng đàn bà gọi:
- Đò ơi....ơi! Cho mẹ con tôi sang sông vớ....i.
Tiếng gọi đò rõ mồn một. Rồi lại tiếng kêu:
- Trả con cho tôi. Trả con cho tôi đâ... ây...
Tiếng gọi, tiếng hời vọng vào đêm khuya vắng lặng. Bỗng dưng, một người đàn bà bước đi nhẹ như gió thoảng từ đỉnh gò xuống.
- Người ta bắt con tôi đem trôi sông. Làm ơn cứu con tôi với.
Tôi nhận ra người quen:
- Chị Sao này mê rồi. Chưa bao giờ chị có con. Tỉnh lại đi.
- Các con tôi đang trôi dưới bến nước kìa. Làm ơn vớt chúng nó lên với.
Tôi nhìn xuống bến. Một màu trăng bàng bạc. Sương giăng mờ ảo. Tôi bàng hoàng không tin ở mắt mình: Anh Tào đào ngũ! Thật rồi, anh Tào đang đặt những hài nhi đỏ hon hỏn lên mấy cái bè chuối và dùng tay đẩy ra xa bờ. Các bè chuối quay tròn, nhẩn nha trôi... Rồi chị Sao nhảy ùm xuống nước, chìm ngỉm. Khi các vòng sóng lặng, bất chợt Thuồng Luồng nhô lên, tóc dài đen, vai vú con gái, nhưng mình rắn. Nó đột ngột quẫy lộn đầu xuống, hai bàn chân nhái có màng giơ khỏi mặt nước. Lại ngoi lên. Con Thuồng Luồng bơi, đẩy bè chuối vào bờ...
Hoảng quá, tôi căng mắt nhìn, không thấy anh Tào nữa. Mấy cái bè chuối cũng biến mất. Chỉ thấy đàn vịt trời lông trắng bay vọt lên, kêu váng mặt sông.
- Sao ơi! Sao ơi! - Anh Lãng vỗ bồm bộp vào vai tôi. - Hết cả hồn. Em mơ à?
Mặt mũi toát mồ hôi. Tôi nhìn xuống bến nước. Vó bè nằm im đổ bóng bốn gọng xuống sông. Trăng sáng vẫn bàng bạc.
- Rõ ràng chị Sao gọi đò, rồi nhảy xuống sông biến thành con Thuồng Luồng.
- Thần hồn nát thần tính, điên à? Em là Sao, là vợ anh chứ còn chị Sao nào nữa. Thôi, nửa đêm về sáng rồi, xuống kéo vó với anh.
Tôi ngồi thừ ra, không biết đâu là thực đâu là mơ. Vợ chồng tôi kéo vó đến tận sáng chẳng được con tôm nào. Chỉ toàn củi mục với rều rác.
Tôi đi chợ bán tôm, nửa đường gặp anh Tào đánh xe trâu chở chã đất và liễn sành màu da lươn.
- Khiếp quá! Từ mai, anh đừng chở thuê những thứ này nữa.
- Thì thôi vậy. Vài năm nay người ta dùng liễn sành nhiều quá, Sao ạ.
Tôi kể chuyện giấc mơ, rồi bảo:
- Anh Tào còn nhớ dạo đi điền dã, anh chôn cái nộm rơm ở gò Thuồng Luồng không? Em với anh chuyện cũ qua lâu rồi...
Anh Tào cười giả lả, cắt lời tôi:
- Anh nhớ ra rồi. Đấy là chuyện tầm phào láo toét. Nhưng chuyện này là có thật này:
Cô Sao không biết là: Ngày xưa, quân Chiêm Thành thường đi biển ra cướp phá nước Đại Việt ta. Thời Trần Nghệ Tông, có một cánh thuỷ chiến Chiêm Thành đi theo cửa biển vào sông Hoàng Long. Chúng đi đến đâu là đầu rơi máu chảy, lửa cháy ngút trời, nhưng đến địa phận làng ta thì tịnh như không. Khi thượng tướng Trần Khát Chân đại thắng Chế Bồng Nga thì quân Chiêm Thành rút chạy. Cánh thuỷ chiến này cũng giong buồm chuồn ra biển. Lúc chúng đến làng ta thế nào, lúc đi cũng vậy. Làng ta bình yên trong chiến tranh. Nhưng ba tháng sau xảy ra chuyện lạ: Vài chục con gái, đàn bà không chồng mà chửa. Chẳng binh đao mà làng loạn. Làng đau thương còn hơn làng khác bị nạn “nước lửa và ống đồng” tàn phá. Lệ làng rất hà khắc. Vài chục người đàn bà ấy bị gọt trọc đầu bôi vôi, rồi đóng bè chuối đem ra bến nước trôi sông. Có điều lạ: Buổi sáng thả trôi về phía biển thì đến la lá tối lại thấy các bè chuối đậu ở bến nước. Hoá ra, theo nước thuỷ triều lên, tôm, cá, cua, rắn nước, rùa, giải, thuồng luồng, ba ba,... bơi quanh đẩy, kéo các bè chuối trôi về bến. Cứ vậy, thả rồi lại trôi về. Làng chịu bất lực trước các loài thuỷ tộc và thuỷ triều, đành cho số đàn bà khốn khổ khốn nạn ấy lên bờ. Đủ ngày đủ tháng, họ sinh ra những đứa bé tóc xoăn, da ngăm ngăm, mắt hoang dã, không mang huyết thống các dòng họ ở làng. Chuyện còn lạ nữa: Trong số đàn bà ấy, có một người đẻ ra cục thịt đỏ lòm, có cái miệng tròn như đồng sèng, cứ kêu: khẹc... khẹc. Người mẹ trẻ sợ quá ngất luôn. Dân làng cho là quỷ quái, lại đóng bè chuối trôi sông. Người mẹ trẻ hoá điên, luôn miệng kêu: “Trả con đây... Trả con cho tôi...” Đang đêm, tóc tai rũ rượi, chạy bịch bịch ra sông Hoàng Long, nhảy xuống nước cuống cuồng bơi, ngụp lặn vớt con mình. Khốn nạn quá! Gái đẻ ngâm nước lạnh, chết, biến thành xác con Thuồng Luồng trôi dạt vào bến nước. Tiền đồng, xương trâu, mo rùa, hình nộm con gái,... được chôn theo. Cái gò con Thuồng Luồng cũng chính là mộ người mẹ trẻ ấy. Người ta ồn: hồn người đàn bà lang thang ở hang nước, mặt sông, thấy người chết đuối là hoá thành con Thuồng Luồng bơi đến cứu...
Thế đêm hôm qua cô Sao có bỏ hòn đất nào lên gò không?
- Không! Anh Lãng em chắc cũng không nốt.
- Giời ạ! Thảo nào giỏ tôm của vợ chồng Sao chẳng đầy thêm là phải. Nhặt ngay một hòn đất chạy đến đó mà thả. Đoảng quá.
9.
Vợ chồng tôi dắt díu nhau đi bộ mười hai cây số xuống bệnh viện thị xã khám. Thầy thuốc bảo: Anh chị sinh lý bình thường, sức khoẻ tốt... Hiện thời chưa tìm ra nguyên nhân. Chúng tôi giới thiệu lên một Quân y viện ở Hà Nội, nhưng tốn kém và xa lắm, anh chị đi được không? Đi chứ. Trường Sơn, Tây Nguyên, Nam Bộ đi được thì Hà Nội sao lại không. Anh Lãng bảo tôi về bán con bò. Mẹ anh cho đôi khuyên tai. Mẹ tôi cho tạ thóc. Em gái anh lấy chồng ở làng bên cho đôi lợn giống. Đôi khuyên tai giữ lại còn bán sạch lấy tiền chữa bệnh. Người còn là của còn.
Chúng tôi được khám, làm hơn một chục xét nghiệm. Ông bác sỹ quân y kết luận: Sức khoẻ tốt. Sinh lý bình thường... Ông bảo tôi ra ngoài chờ, ông có chuyện nói riêng với chồng tôi. Hoá ra, ông dẫn chồng tôi đến một phòng trắng lạnh lưu giữ vài trăm cái bình thuỷ tinh đựng các quái thai và xác hài nhi dị dạng để nghiên cứu. Ông cho xem ảnh, giảng giải và chỉ vào một cái bình, bảo: Đây là trường hợp cha bị nhiễm chất độc màu da cam vẫn đẻ con lành lặn, bình thường; nhưng đến khi đứa con gái lấy chồng thì lại sinh ra một chùm cục thịt như chùm vải chín đỏ. Cái hậu quả này nặng nề lắm, chẳng bao giờ mới hết. Ông căn dặn, an ủi, động viên đến khi chồng tôi hoa mắt, ù tai và không chịu được mùi phoóc môn, hai người mới ra.
Về nhà, chồng tôi nằm lì ba ngày không dậy. Ngày thứ tư, anh gọi tôi vào. Anh già thêm đến chục tuổi. Thương vô cùng. Tôi nằm gối đầu tay chồng, anh nói:
- Bây giờ, anh không giấu em nữa. Bác sỹ bảo anh bị nhiễm chất độc màu da cam. Chửa đẻ trăm lần thì cũng trăm lần quái thai, dị dạng.
Anh tưởng tôi sẽ bàng hoàng đau đớn, vật vã. Nhưng mắt tôi ráo hoảnh. Còn nước mắt đâu nữa mà khóc. Dù anh bị nhiễm chất độc màu da cam hay tôi đẻ quái thai bẩm sinh thì nỗi đau nào cũng như nhau cả thôi.
- Nhiễm chất độc da cam lúc nào? Anh phải biết chứ!
- Lúc đó làm sao biết được. Nghe ông bác sỹ giải thích, rồi mấy ngày nằm nhớ lại: Có lẽ do hành quân qua những cánh rừng trụi lá. Bọn anh uống nước suối ở đó lúc khát, còn múc đầy bi đông mang theo. Lại có lần, đơn vị đóng quân trong rừng già, thấy những chiếc máy bay Mỹ bay rất chậm phun ra chất gì đó như sương mù trắng đục. Vài ngày, lá ngả màu đồng loạt, gió rất nhẹ lá cũng rụng lả tả. Cây trụi lá chỉ còn trơ thân cành. Cả cánh rừng một màu chết chóc. Đi đường thỉnh thoảng thấy những vỏ thùng sắt hoặc thùng nhựa, có đai xung quanh nằm lăn lóc trong rừng. Có đứa ở tiểu đội ước ao mang về quê làm thùng đựng nước ăn cho mẹ. Thì ra là thùng đựng chất diệt cỏ máy bay Mỹ ném xuống mà đến bây giờ có người còn không hề biết.
Tôi vùi đầu vào ngực chồng. Chưa bao giờ tôi thương anh như lúc này. Nhưng quả thật trong lòng rất đau đớn, chán chường.
10.
Chồng tôi nhận được thư anh Hà Văn Nênh, đồng đội cũ báo tin vợ mới đẻ con trai. Chồng tôi bảo chọn chục trứng gà, năm ống gạo nếp đi thăm.
Nhà sàn chon von một mình trên quả đồi nhỏ thấp tè. Cửa man khép hờ, trẻ con oe oe khóc. Tã lót phơi trắng bờ rào. Dưới gầm sàn, có con bé cởi chuồng, đầu tròn ủng không sợi tóc, không có tay, hàm hô răng lợi nhe như khỉ. Tôi nem nép sát hông chồng, sợ nó cắn. Lại thấy con trăn hai đầu nằm cuộn như khoanh chão bên chân cột nhà...
Chồng tôi và anh Hà Văn Nênh ngỡ ngàng một lát rồi nhận ra nhau. Anh Nênh gọi vợ bế con ra chào khách quý. Tôi đón thằng bé, khen vợ anh Nênh trẻ. Anh bảo: Con vợ trước đẻ ba lần đều quái thai, dị dạng; sợ quá nó bỏ tôi, bỏ cả cái đứa không thành người đang ngồi ở gầm sàn kia đi rồi. Đây là cô vợ mới.
Chuyện đang say, bỗng dưng chồng tôi tái mét mặt. Anh kéo anh Nênh, chỉ mấy thùng đựng nước ăn:
- Mày lấy ở đâu?
- Giải phóng xong, đi quy tập mộ liệt sỹ em nhặt được ở rừng. Lúc ra quân, quẳng nhờ lên xe tải đơn vị về Bắc. Tiện thể rủ mấy thằng lính “rửa tay gác kiếm” cùng đợt về nhà chơi, nhờ chúng nó gùi luôn về. Anh chị cõng được, lấy một cái về nhà mà đựng nước ăn.
Chồng tôi kêu giời kêu đất. Điếc không sợ súng, bạn anh mang cái chết về nhà. Đấy là những thùng đựng thuốc diệt cỏ, thuốc phát quang. Con bé dị dạng kia là hậu quả chất độc màu da cam nhiễm người cha hay từ những thùng này? Bấy giờ mặt anh Nênh dúm dó lại, sợ hãi thực sự.
11.
Từ hôm ở nhà anh Hà Văn Nênh về, nói chuyện với mẹ, chồng tôi thường khen bạn mình tốt số gặp may. Sau nhiều ngày đắn đo, anh quyết định nói với tôi rằng anh muốn “giải phóng” cho tôi. Anh mong tôi tìm hạnh phúc mới và đẻ những đứa con lành lặn. Tôi ra đi như con thuyền rời bến cũ, có phúc sẽ có phần, biết đâu gặp bến mới thì cắm sào đậu. Cho là rổ dá cạp lại, tôi cũng có chốn ấm mà nương thân... Quả thật, có lúc tôi nghĩ đến điều này. Nhưng khi đó, tôi choáng váng, cảm thấy bị bỏ rơi. Tôi lại hiểu: thấy vợ hai anh Hà Văn Nênh sinh đẻ mẹ tròn con vuông nên anh đang hi vọng vào cuộc hôn nhân mới. Tôi tủi thân. Anh không biết rằng tôi đã tắt kinh hơn một năm. Tắt kinh vì sợ hãi, vì sức lực kiệt quệ. Những lần phơi xô màn trắng dây phơi chỉ để nhắc mình không phải đàn ông, mà là đàn bà đang độ tuổi ba mươi; để chồng tôi đã chán chường rồi đừng ê chề thêm. Tôi giận anh vô cùng.
Một hôm, anh Lãng đi vắng, mẹ chồng tôi gạn hỏi:
- Từ hôm vợ chồng đi thăm bạn về, con tính sao?
- Chả tính sao.
Tôi giận, nói nhát gừng, chỏng lỏn, dù là biết vô lễ. Nhưng bà vẫn nhẫn nhịn:
- Sao ơi! Không phải mẹ bảo thằng Lãng bỏ con lấy vợ mới đâu. Mẹ nghĩ kỹ rồi: Con thương con, thương thằng Lãng, con thương dòng họ nhà chồng thì con...
- Thì con bỏ anh Lãng chứ gì? - Tôi khóc bù lu bù loa. Bao nhiêu đau khổ, giận dỗi kìm nén bùng lên. - Thôi mẹ chồng ơi, xin mẹ chồng đừng nói nữa. Mẹ chồng có chắc chồng con cưới vợ mới sẽ đẻ ra đứa con bụ bẫm lành lặn như vợ hai anh Nênh không?
Bất ngờ, mẹ chồng tôi quỳ hẳn trước mặt con dâu:
- Bu lạy con. Bu lạy con... Con ơi! Con nghĩ được vậy là cả nhà ta ơn con trời biển. Nhưng con chưa hiểu hết ý bu. Con cũng cần có đứa con do mình dứt ruột đẻ ra. Nhà ta không thể bắt con làm người ở con hầu trong nhà suốt đời được. Tội lắm.
- Thôi, bu không phải nói nữa! Con sẽ làm ngay... Con làm ngay theo ý chồng con và bu...
Lúc đó, không một lời nói chân tình nào lọt tai tôi cả. Và tôi âm thầm chuẩn bị một kế hoạch của riêng mình...
12.
Tôi li hôn như chạy trốn khỏi chồng. Mẹ tôi buồn, thương con gái chỉ thầm thũi khóc. Khi mọi việc đã như ý định, lại thấy mình là con ngốc. Nửa năm rồi, tôi cố quên đi đoạn đời đau khổ đã trải qua, nhưng chẳng thể nào quên được. Càng cố quên, các hình ảnh, kỷ niệm xưa cũ càng hiện về: Những đêm vò võ chờ chồng đi xa. Mẹ chồng con dâu chấy rận cho nhau như ruột thịt. Mùi mồ hôi chua chua trên áo và khuôn mặt sạm nắng của chồng. Đêm vợ chồng đi cất vó tôm. Năm lần sinh đẻ không ra hình người. Mụ mị cứ nghĩ mình là con Thuồng Luồng... Tất cả đều như vừa mới hôm qua.
Tôi thường ra bờ sông nhìn về phía nhà chồng cũ, khói chiều đang bay trên mái dạ. Tôi đoán, con bạn tôi hôm nay cho anh ăn cái gì? Đêm qua, nằm bên vợ mới anh có chợt nhớ tôi không? Người ta bảo: đàn bà đã trao thân cho người đàn ông nào là suốt đời sống chết với người đó. Sao tôi không sống chết với chồng tôi?
Tôi đã biết mình khổ vì đâu. Nhưng cái bùa anh Tào yểm ngày xưa vẫn ám ảnh không dứt. Tôi sang sông, vác cuốc xẻng đến gò Thuồng Luồng đào. Tôi quyết phá tan cái bùa nộm rơm hồn con Thuồng Luồng cốt con gái để lòng tôi thanh thản. Tôi đào cuốc như con dở hơi.
Trời xui đất khiến anh Tào đánh xe trâu đi qua đúng lúc tôi lôi lên một bộ xương, chẳng biết xương gì. Tôi khóc hu hu.
- Tôi biến thành con Thuồng Luồng rồi! Anh Tào ơi...ời!
- Em dại dột quá, Sao ạ. Ai lại tin lời nói vu vơ của anh cái thời nông nổi ấy.
- Thế thì... bộ xương... nào... đây?
- Có dễ xương... con Thuồng Luồng.
Tôi sây sẩm mặt mày:
- Tôi với anh duyên phận đâu vào đấy rồi. Sao anh cứ ám tôi mãi thế?
Vẫn chân thọt chân lành tập tễnh, nhìn anh Tào vừa giận vừa thương. Không đáp lại lời tôi trách móc, anh ngần ngừ một lát rồi nói:
- Sao này. Vợ mới của anh Lãng vừa sảo non ra một bọc, bờ đỡ đếm được mười một cục thịt đỏ lòm. Cứ như Thuồng Luồng đẻ trứng ấy. Sao ạ...
Tôi rùng mình. Hai tai ong ong như có ngàn vạn tiếng chuông dồn dập dội vào.
Anh Lãng và tôi, không biết ai khổ hơn ai?
13.
Tôi lại sang sông.
Con bạn tôi yếu đuối quá, không gánh nổi “cái nợ” nhà chồng. Cô ấy đã bỏ anh Lãng đi thật rồi. Anh Lãng đang âm thầm, lạnh tanh chịu đựng. Mẹ anh ốm rất nặng, có dễ không qua khỏi. Bà và anh Lãng đang cần tôi. Thực ra, lúc này chúng tôi rất cần nhau. Đã đến nước này thì... tôi phải gắng qua nốt bến nước thứ mười ba thôi.
Tôi chọn lúc la lá tối sang sông. Đò đi chuyến cuối ngày. Sương mù đã bay dầy trên mặt nước. Một cái thuyền buôn đỏ lửa nấu ăn tối, đậu dềnh dàng sát bờ. Tôi nhận ra rất nhiều chã đất nung và liễn sành màu da lươn xếp đầy khoang thuyền buôn. Tôi bủn rủn chân tay. Khiếp quá! Mấy năm nay người ta dùng những thứ ấy nhiều quá. Ra đến giữa sông, đò chạm phải những cái bè chuối. Cô lái đò bảo: “Chị chịu khó ngồi, em chở! Từ chiều đến giờ, bè chuối ở đâu đó trôi về bến đông lắm.” Tôi nghi có thuồng luồng, ba ba, rùa, giải bơi theo đẩy; liền lấy sào khua dưới nưới thì không thấy vướng. Đò cố lách bè chuối lướt nhẹ. Vào gần bến, không tài nào đi được nữa. Bè chuối san sát chặn đằng trước đằng sau, vây chung quanh. Cô lái đò bỏ chèo, lấy sào đẩy bè chuối này ra, bè khác lại trôi áp vào: “Không cập bến này được đâu! Quay lại thôi. Hay là cập bến khác, chị nhá.” “Cô gái ơi! Bến này đã chót sang thì sang đến cùng.” Tôi cúi thò tay đẩy các bè chuối ra. Bè tản dần xa. Đò cập bến. Thật lạ kỳ! Tôi không cắt nghĩa được chuyện gì vừa xảy ra.
Lần sang sông này vất vả quá. Tôi lên hẳn bờ, không thấy cái bè chuối nào dưới sông nữa. Đò và cô lái đã chui vào mù sương bến nước. Trên thuyền buôn chở chã đất nung và liễn sành màu da lươn, lửa vẫn lập loè sáng đỏ./.
ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG
Chuyến bay Sài Gòn - Hà Nội chậm gần năm tiếng đồng hồ.
Ba thằng mệt mỏi, ủ ê ở nhà ga. Cái nhà ga là nơi đưa đón những số phận. Hẹn hò ngày gặp lại. Chia tay rồi mãi mãi xa nhau? Tôi đã đi qua những nhà ga thế này, có những lần hớn hở vui, có những khi u uất, buồn, lòng trĩu nặng.
Cả ba thằng chúng tôi đều rỗng túi sau chuyến đi dài lăn lóc qua Cần Thơ, Đất Mũi, Rạch Giá, Phú Quốc… Chặng đường phía trước thăm thẳm. Ai biết trước được điều gì sẽ xảy ra khi con chim sắt chứa trong bụng nó mấy trăm người bỗng dưng trở chứng.
Máy bay đến khoảng Tây Nguyên thì mưa to và gió lớn. Lắc kinh khủng. Tròng trành. Hành khách náo loạn, hoảng sợ. Một bà già lẩm nhẩm, cầu trời khấn phật. Một anh chồng điện thoại cho vợ, sám hối, nhận lỗi về mối tình vụng trộm và xin nàng tha thứ. Một cô gái trẻ sợ quá ngất đi. Một cô vợ điện thoại cho chồng biết khoản vốn riêng phòng thân mấy cây vàng chôn giấu ở chân giường và khóc lóc xin chồng ở vậy nuôi con, đừng lấy vợ…Hoang mang, hoảng sợ, không ai kiểm soát được ai. Tôi hoàn toàn không tự kỷ ám thị về sự nguy hiểm, mà thực sự trứng đang treo đầu đẳng. Thôi đành phó thác cho số phận.
Vậy mà, tai qua nạn khỏi. Cứ y như là giấc mơ khủng khiếp vừa trôi qua. Nhưng, cái chết vẫn theo đuổi ám ảnh tôi. Xuống sân bay, tôi mới biết mình còn sống.
Hà Nội không hề có mưa. Đúng tối Noel, trời rét, nhưng khô ráo. Ở nhà chờ, người ta dựng cây thông Noel có dễ cao đến bốn mét, điện màu nhấp nháy, lấp lánh giấy tráng kim. Đêm Giáng sinh đã thực sự đến với mọi người. Nhà ga, vẫn những cuộc đón đưa. Ai sẽ cười? Ai đang khóc? Cái dòng đời vô tận này ai sẽ hạnh phúc hơn ai?
Cuối cùng, tôi cũng về đến nhà sau chuyến đi nhọc nhằn, và một chuyến bay trục trặc, đầy hiểm nguy.
Vợ tôi mở cửa. Con bé giúp việc đang sới cơm. Con gái đang so đũa. Con trai bé ngồi vào mâm, vẫn dán mắt vào chuyện tranh. Vợ tôi bảo:
“Anh vào ăn cơm. Các con đang đợi”
Con gái bảo:
“Bố vào ăn cơm, con còn đi chơi Giáng sinh.”
Con trai bảo:
“Bố vào ăn cơm để con còn chơi game.”
Sao vợ tôi không hỏi: “Anh đi đường có mệt không?” Sao con gái không bảo: “Con thấy bố bơ phờ, mất hồn, người gầy đi đến mấy cân.” Sao con trai tôi không hỏi: “Bố có mua gì cho con không?” Hoặc ít ra, chúng nó giận dỗi, trách cứ bố điều gì đó, để tôi có cớ thanh minh, xin lỗi. Hoặc ít ra, vợ tôi cũng tỏ ra coi thường cái thằng chồng vô tích sự, hay kém hấp dẫn, để tôi phải cun cún khép nép trong nỗi mặc cảm, sợ hãi.
Tôi thả cái samsonai bên chân cầu thang. Tôi bước vào phòng vệ sinh. Tôi muốn khóc quá mà không khóc được. Cái mặt méo xệch trong gương.
Bữa cơm nhiều món ăn. Nhà tôi, ăn theo khẩu vị, không bắt buộc ai ăn giống ai để chiều lòng nhau. Vợ tôi thích xúc xích Đức, nàng vẫn thường mua vài cân để trong tủ lạnh, ăn dần. Con gái lớn bốn mùa ăn thịt thăn quay. Con trai bé quanh năm ăn thịt gà luộc. Tôi toàn thích món ăn nhà quê. Tối nay, vợ tôi bày ra món thịt lợn ba chỉ chấm mắm tép và canh cua cà pháo. Tôi bảo:
“Ngon quá. Lúc nào bố chết, cúng 100 ngày, các con nhớ cúng món này nhé.”
Chẳng có ai trả lời. Mọi người lầm lũi ăn. Tôi hỏi vợ:
“Em ở nhà thế nào?”
Nàng bảo:
“Bình thường, anh ạ”
Tôi lại hỏi:
“Thi hết học kỳ một thế nào con gái?”
“Bình thường, bố ạ”
Tôi lại hỏi con trai:
“Còn con?”
“Bình thường, bố ạ.”
Bình thường! Cuộc sống bây giờ “gạo châu củi quế”, bó rau muống mùa đông héo quắt: 6000 đồng, cân thịt bò: 100 000 đồng, lạng thịt lợn ba chỉ: 5000 đồng…, vớ được hai chữ bình thường đã là hạnh phúc lắm.
Bình thường! Thời buổi này đầy bất trắc, bất ổn, ra đường sợ tầu xe đâm, đến cơ quan nhìn cái bản mặt nào cũng thấy tối tăm, đầy toan tính, về nhà thấy nước da con cái không bợt bạt, tóc tai không bù xù, mồm miệng không ngáp vặt, chảy nước dãi… là mừng. Mong ước giản dị được hai chữ bình thường coi như cuộc sống hạnh phúc, yên ổn.
Nhưng, hai chữ bình thường từ miệng vợ con tôi có bình thường không? Hững hờ, vô tình hay vô cảm?
Tôi hỏi con bé giúp việc:
“Cháu thấy nhà chú thế nào?”
“Cháu chịu thôi. Nhà chú chẳng ai nói với ai. À quên, có nói có hỏi nhưng ít lắm; có ngày không quá ba câu.”
“Cháu có nói vống lên không?”
“Thật đấy. Hôm ấy mà nói đến câu thứ tư thì không chết người cũng động đất núi lửa. Chỉ có chú là hay chuyện thôi.”
Tôi buồn lặng. Con bé này nói đến thế, mà vợ con tôi cũng không phản ứng. Như nhà khác thì con ô sin này đã bị đuổi ra đường. Ba mẹ con vẫn lẳng lặng ăn. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ xa xôi ở chân trời góc bể nào đó.
Tôi gác đũa nhìn vợ. Xa lạ quá. Nàng như không còn là vợ tôi nữa. Ngày trước, Noel tôi đã từng đưa nàng lang thang trên những con phố đêm đến nhà thờ xứ đạo Hà Đông, nhà thờ Nam Đồng, nhà thờ Cửa Bắc, nhà thờ Lớn Hà Nội…, cũng vài lần về quê đi xuống tận nhà thờ đá Phát Diệm. Lãng mạn, chân thành và nỗi niềm tâm sự muộn phiền sâu lắng nhất là đêm Giáng sinh ở Sa Pa mù sương. Những ngọn đèn đường màu vàng ệch và nến thắp sáng lung linh trong nhà thờ đã giảm bớt cái lạnh lẽo của phố khuya. Những ngọn núi hình răng cưa và thửa ruộng bậc thang chìm vào đêm đông lạnh lẽo. Sương mù như tấm voan mỏng nhẹ trắng đục trùm lên nhà thờ đá cổ Sa Pa rêu phong, tôi vẫn nhận ra màu xám bạc và vẻ trầm tư đến cô độc. Nàng dịu dàng khoác tay tôi, khe khẽ hát Bài Thánh ca buồn:
… Rồi những đêm thánh đường đón Noel/ Lang thang qua miền giáo đường dấu yêu/ Tiếng thánh ca ngày xưa vang đêm tối/ Nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn...
Thảng thốt, tôi giật mình. Nàng đang hát cho nàng? Hay nàng hát cho tôi và Tê rê xa ngày xưa? Lòng chợt se lại. Bất chợt tôi bắt gặp những bước chân trần của người dân tộc Mông, Giáy… ở các bản Tả Phìn, Lao Chải, Cát Cát, Mường Hoa cũng vừa từ nhà chánh xứ bước ra, bắt đầu tản dần trên đường phố nhỏ ngoằn ngoèo heo hút. Tôi và nàng dùng bữa Reveillon ngay trên con dốc phố núi có những bậc đá lát cũ màu xanh. Bếp than hồng ấm sực, rượu thóc San Lùng thơm lừng, thịt lợn cắp nách nướng và ngô bắp cũng nướng. Bỗng dưng, nhớ món bánh bột lọc và cá chép nấu cháo đêm Giáng sinh năm xưa, miệng tôi chợt đắng ngắt. “Em không ăn được nữa” - nàng bảo. “Sao vậy em?” Tôi cảm thấy như mình có lỗi, ái ngại hỏi. Nàng ngần ngừ một lát rồi bảo: “Anh nhìn kìa. Những đứa bé người Mông mặc quần áo đen hơn màn đêm, bước chân trần trên đường nhựa buốt giá.” Tôi lặng im. Nàng thương bọn trẻ người Mông đến giờ này còn phải đi bán khăn thổ cẩm và sợi chỉ màu buộc tay kiếm từng đồng bạc lẻ? Hay nàng buồn vì đọc được nỗi lòng trĩu nặng của tôi đang trào dâng ký ức xưa cũ? Tôi nhận ra, nàng và tôi ấm áp, gần gũi, tin cậy biết bao nhiêu...
Vậy mà, bây giờ, cái gì đã làm cho vợ tôi lột xác, đổi thay? Nàng không còn nhớ hay không muốn hát Bài Thánh ca buồn nữa. Đến nỗi buồn còn không có chỗ cư trú thì con người nàng đang rỗng. Tôi hỏi:
“Em làm sao thế? Hay anh có lỗi gì à?”
Nàng lắc đầu:
“Không. Em có phàn nàn gì đâu.”
Tôi lại hỏi:
“Các con này, hay bố có lỗi gì với các con?”
Con gái bảo:
“Việc bố làm, con không quan tâm.”
Con trai bảo:
“Con chẳng để ý gì.”
Tôi lắc đầu ngao ngán.
Bữa ăn vẫn diễn ra đều đều, có phần tẻ nhạt. Không hào hứng. Không ồn ào. Không suýt xoa khen ngon. Không phàn nàn mặn, nhạt. Không kêu ca, cay đắng. Tôi kể:
“Máy bay bố đi đến vùng trời Tây Nguyên thì gặp thời tiết xấu. Chòng trành. Lắc. Rung. Bố bị ù tai, hoa mắt, chóng mặt. Có lúc máy bay qua chỗ không khí loãng, rơi tụt xuống cả trăm mét...”
Đứa con gái không nói gì. Thằng con trai im lặng. Vợ tôi bảo:
“Khiếp! Anh kể nghe rợn tóc gáy. Ghê chết đi được.”
“Ừ. Sợ lắm! Anh cứ tưởng không về được với mẹ con em.”
Con gái lên tiếng:
“Máy bay mình không hiện đại bằng máy bay Tây, bố ạ.”
Con trai vẫn vừa ăn vừa dán mắt vào truyện tranh Đô rê mon, thủng thẳng nói:
“Hôm nào, bố cho con đi để con thử cảm giác mạnh.”
Vợ tôi bảo:
“Em nghe nói. Máy bay rơi, mỗi người chết được đền bù 60 000 đô la. Nhà nào túng bấn cũng đỡ một phần, anh nhỉ?”
Họng tôi nghẹn cứng. Không nuốt được. Tôi bỏ đũa, đứng dậy. Con gái hỏi:
“Bố thôi ạ?”
Vợ tôi bảo:
“Chắc đi đường mệt. Bố ăn ít.”
Tôi bước vào phòng ngủ. Đóng ập cửa lại. Tôi ngó quanh. Súng không có. Dao, kiếm cũng không. Tôi nằm vật xuống giường. Sao cái nhà này chẳng có ai hiểu tôi? Giá có khẩu súng, chưa biết số phận tôi đã ra sao.
Tôi biết mình khốn nạn trong nhà từ lâu, nhưng chưa bao giờ hình dung ra nông nỗi này. Lúc ngồi vạ vật ở sân bay, thằng A thằng Z, đứa nào cũng mong ngóng về nhà nhanh. Con người có cái nhà cũng như con chim có cái tổ trú ngụ lúc gió mưa, giá rét. Cái nhà y hệt cái hầm trú ẩn cuối cùng. Khi xênh xang mũ áo, lúc sa cơ lỡ bước, thất thế ngoài đời không còn đường thoát cũng phải quay về nhà tránh nạn.
Về nhà, lúc ấy mỗi thằng một tâm trạng…
Thằng A ngồi xao xuyến nhớ ba đứa con trai còn ở tít tận Tây Nguyên chưa tha ra Hà Nội được. Ôi trời! Một năm hai lần nhảy ô tô cỏ về đất đỏ bazan thăm nhà. Vợ chồng chưa kịp ôm hôn, quấn quýt đã giận nhau. Giận bóng. Giận gió. Giận hờn. Giận rỗi. Giận vì những chuyện chẳng đâu vào đâu. Để rồi xa nhau lại ò e í e điện thoại nước mắt ngắn nước mắt dài. Thương thương. Nhớ nhớ… Vợ nó sai thằng lớn điện thoại: “Bố ơi! Về nhà đi. Chúng con nhớ bố lắm.” Con nhớ bố hay vợ nhớ chồng? Hắn nghĩ: Giá mà bây giờ được về nhà ôm thằng cu bé nhất, vục mặt vào háng nó, ngậm miệng vào chim nó. Bốn bố con đùa nghịch cười như nắc nẻ thì sung sướng biết bao. Thằng này, bất giác bật lên một câu thơ: Vợ dại con thơ L… một cái/ Nhà tranh vách đất DÁI tám hòn. Rồi cười như… mếu.
Thằng Z lại nghĩ, về đến nhà có cách gì để làm đẹp lòng vợ. Cả tuần đi công tác, gã ăn uống kiêng khem, món ăn nào ảnh hưởng đến tình dục là chừa ra, chỉ sợ về nhà mất sức chiến đấu, vợ nó chì chiết cho thì khổ. Thằng này nghĩ: ào vào phòng khách thế nào cũng thấy chị giúp việc (còn gọi là ô sin) đang ẵm con bé. Thằng này chằm bặp ôm đứa con bé bỏng vào lòng. Cũng định vục mặt vào háng đứa bé hôn hít, nhưng chợt giật mình nhớ ra đứa con thân yêu của mình là… gái. Đã là bé gái thì không thể úp mặt vào háng hôn hít như thằng A ngậm chim con được. Thằng này hôn chùn chùn vào má con bé khiến nó sợ khóc thét lên. Cô vợ trẻ đưa mắt lườm chị giúp việc. Biết ý chủ nhà, chị vội vàng ẵm lấy đứa bé: “Thôi, thôi để chị bế sang “hàng xóm” chơi, chú đi đường bụi bặm, tắm táp, nghỉ ngơi đi.” Chị ô sin tay phải ẵm đứa bé, tay trái lôi sềnh sệch đứa lớn đang nhai kẹo dừa Bến Tre cùng đi, rồi khuất hẳn. Thằng này mừng rơn. Bất chợt, gã bắt gặp cái nhìn thèm khát của cô vợ trẻ cao một mét bẩy hai, to lừng lững, béo trắng như lợn cạo đã tắm rửa sạch sẽ, sức nước hoa đang sốt ruột chờ. Má rừng rực đỏ, cháy bỏng, khát thèm, muốn. Không còn biết trời đâu đất đâu. Thằng này rúc vào nách vợ. Nắng lâu, dưa ngấu. Lần này, thì cô vợ mặt nở hoa, mãn nguyện. Hạnh phúc quá trời! Tối đêm, gã ghi vào sổ: Vợ đẹp con khôn L… ba cái/ Nhà cao cửa rộng Dái hai hòn.
Thằng A, thằng Z, mỗi đứa một hoàn cảnh, nhưng đứa nào cũng ngời ngời đầy ắp hạnh phúc. Ấm áp. Da diết. Xao xuyến. Run rẩy. Cứ y như thời đang yêu đằm thắm say mê. Cứ y như tuần trăng mật. Cứ y như tháng trăng mật. Cứ y như trái đất này chỉ có hai ta và những đứa con bé bỏng.
Còn thằng tôi, tôi đã hình dung ra một cái ao tù đọng ngay trong nhà mình. Máy bay có chậm giờ đổi chuyến. Máy bay có dừng bay hôm nay, ngày mai, mãi mãi cũng chẳng làm tôi sốt ruột, mong ngóng. Nếu có chút lo lắng, chỉ là nỗi sợ mất việc làm. Ước mong một cái nhìn đằm thắm của vợ, một cử chỉ suồng sã hay quấn quýt đầm ấm của con vẫn xa vời. Có khi sợ về nhà. Lâu ngày, ngụp lặn trong lạnh lùng, vô cảm; sống cũng quen dần.
Một lúc sau.
Tôi ngóc đầu dậy. Con gái vừa đánh răng xong, đang mặc thêm áo ấm.
“Con đi ô tô hay mẹ?”
“Mẹ đi.”
“Con không đi cùng mẹ?”
“Không! Con muốn đi một mình.”
Một mình. Sao các người lúc nào cũng muốn một mình? Con gái tôi lặng lẽ ra khỏi cửa. Cái lưng nó như còng xuống. Sao già sớm thế hả con? Con gái đẩy chiếc xe Dyland mới mua hơn trăm triệu đồng ra sân. Khổ thân, nhà có túng thiếu gì đâu mà con bé gầy mảnh; cái xe thì to nặng.
Vợ tôi đang trang điểm. Nàng tô thêm son lên làn môi đỏ chót. Nàng thay cái nhẫn vàng mặt lá cỏ bằng cái nhẫn mặt đá hồng ngọc. Nàng khoác áo choàng lông thú màu đỏ cổ viền trắng. Nàng quay lưng lại mặt gương, hỏi:
“Anh có đi nhà thờ với em không?”
Tôi lắc đầu, đột nhiên lỡ lời:
“Anh muốn ở nhà một mình.”
Nàng dường như chẳng nghe, hoặc nghe nhưng không phàn nàn trách móc, thản nhiên, bảo:
“À quên. Lúc tối, có anh bạn gì làm nghề đánh cá, cùng học phổ thông với anh, điện thoại ra bảo không liên lạc được với anh.”
“Chắc lúc đó anh đang trên máy bay. Tắt di động. Anh ấy bảo sao?”
“Bảo anh về dự khánh thành nhà thờ đạo mới xây, tiện thể dự lễ Giáng sinh luôn. À, em bảo này: Nếu về quê, anh cứ khóa cửa ngoài, lúc nào về em tự mở.”
Nàng đi xuống cầu thang. Cái áo choàng lông thú màu đỏ mất hút vào đêm mùa đông. Tiếng xe ô tô Camry 3.5 rì rì nhỏ dần rồi im bặt. Nàng đi, khoảng trống sau lưng nàng và tôi cứ rộng hoác ra.
Đêm Giáng sinh. Tôi bơ vơ, cô độc như con sói lạc đàn. Thà rằng bị giận hờn, trách móc như thằng A! Thà rằng thấp thỏm âu lo “đóng thuế” cho vợ và tràn trề thỏa mãn như thằng Z! Chúng nó có khuyết thiếu chỗ này, có vênh váo cập kênh chỗ kia, nhưng vẫn sẵn nơi để nhớ để mong, vẫn sẵn người chờ đợi, vẫn sẵn kẻ khát thèm. Còn tôi, tôi không có chốn dung thân ngay trong nhà của mình.
Căn biệt thự nhiều phòng rộng. Vắng vẻ. Quạnh hiu. Tôi muốn đập phá quá. Bom bay hoặc tên lửa Tô ma hốc của Mỹ phóng đến cái nơi ở u uất này cũng được; nó sẽ vỡ tung ra, biến mất.
Bỗng dưng tôi nhớ đến con trai đang ở nhà. Vẫn còn hai thằng đàn ông trong cái không gian chật hẹp, tù đọng, bức bối này. Mọi muộn phiền, đơn độc, uất ức dịu hẳn.
Tôi vào phòng con trai. Thằng bé chơi game xong đã nằm lăn ra ngủ. Đầu nó nghẹo sang một bên. Thương quá! Thằng bé lạnh lùng ngay từ trong bụng mẹ. Suốt chín tháng mười ngày không hề quẫy đạp. Lỳ lợm không thèm đếm xỉa gì đến chiến tranh, giá cả leo thang, thời tiết nóng lạnh ở bên ngoài. Tôi vành tai úp vào bụng mẹ nó, nghe tim thai. Im ỉm. Lặng phắc. Lúc đẻ nó ra, vợ tôi thiếu sữa, phải nuôi bộ. Mười hai giờ đêm, mắt vẫn thao láo thức. Nóng sốt. Sài đẹn. Tôi ôm ấp, ẵm bế, chăm chút như người mẹ. Con vàng con bạc, con hồng ngọc, con kim cương của tôi.
Tôi nhấc đầu thằng bé, tuồn cái gối bông gạo xuống gáy. Rồi nhẹ nhàng nằm xuống bên ôm lấy con trai. Lòng rưng rưng, da diết. Có nỗi niềm máu mủ ruột thịt nào hơn. Tôi thức đêm thức hôm kẻ vẽ viết, làm dự án kiếm tiền cho vợ con. Tôi đi công tác chắt chiu từng đồng tiền thanh toán, chỉ tiêu đồng lẻ cũng vì vợ con.
Mái tóc thằng bé nhuộm hoe hoe vàng, xịt keo thẳng đứng. Áo thổ cẩm xám xịt. Mồ hôi thằng bé chua chua. Tôi nhận ra mùi mồ hôi mình. Cha nào con nấy. Tình thương yêu ruột thịt trỗi lên thật mãnh liệt. Tôi kéo đầu thằng bé vào lòng mình.
“Bố!”
Thằng bé gạt tay tôi ra khỏi bụng nó. Tôi nhẹ nhàng, âu yếm:
“Ừ. Bố đây. Cho bố ngủ với con một lúc với.”
Thằng bé đẩy tôi ra:
“Bố về phòng bố đi để con ngủ.”
“Con đuổi bố đấy à?”
Thằng bé càu nhàu:
“Không! Con chỉ muốn một mình.”
Lại “một mình”, nhà này ai cũng một mình! Lâu lắm rồi, tôi chưa được ôm thằng bé vào lòng. Tôi năn nỉ:
“Bố muốn ngủ với con.”
“Bố ngủ ở đây thì con đi phòng khác.”
Thằng bé nhỏm dậy, cau có, quơ cái gối rồi bỏ sang phòng bên cạnh. Tiếng cánh cửa đóng sầm, và tiếng lách cách gài chốt. Chốt cửa, một thế giới riêng biệt khép lại. Thằng bé “một mình” rồi. Tôi không thể bước vào cõi ấy được nữa. Tôi cảm nhận mình đang bất lực. Và tôi nhận ra mình đang nằm trơ trọi trên giường, cô độc ngay trong nhà của mình. Tôi bất lực và hoang mang thật sự!
Tôi hình dung cô vợ thằng A lại xui con điện thoại từ Tây Nguyên ra năn nỉ bố: “Bố ơi! Về nhà đi, chúng con nhớ bố lắm!” Và nàng ta đang tủi thân, tức tưởi: Đàn bà xuân sắc có thì/ Năm một lần phép còn gì là xuân. Tôi tưởng tượng đến cái mông cô vợ thằng Z đang ưỡn lên, cái ngực đang chường ra. Và nàng bảo: “Nhanh lên anh! còn ăn cơm rồi đi lễ Giáng sinh”...
Chẳng lẽ lại khóc. Đàn ông đã khóc là xảy ra một cái gì đổ vỡ, nát tan lắm. Vợ tôi không có tội. Con tôi không có lỗi. Tôi sống ngay ngắn, tử tế trong nhà ngoài đường. Hà cớ gì, nguồn cơn nào vợ chồng, bố con không gần gũi được nhau? Tôi muốn vạch trời xanh kêu và hỏi cho ngọn ngành. Tôi cố kìm tiếng lòng tấm tức khỏi bật ra. Chẳng lẽ chốn này không có chỗ tôi dung thân?
* * *
Về quê!
Về quê ngay.
Ý nghĩ hồi hương chợt lóe lên đầu. Tôi gọi taxi, đi về quê ngay trong đêm. Vẫn còn kịp gặp bạn bè thời chăn trâu cắt cỏ, thời đi học phổ thông trong đêm Giáng sinh. Tôi đang điên? Tôi đang chạy chốn khỏi căn nhà của mình?
Tôi là người xa quê đã lâu. Sống ở thành phố nhiều năm nhưng chưa bao giờ tôi là người phố phường. Bạn bè bảo tôi là người khó đổi thay. Dân dã. Chân mộc. Nhưng, lãng mạn. Và nặng tình.
Quê tôi rất nhiều nhà thờ đạo. Nhà tôi lại đi lương. Một xóm đi lương lọt thỏm giữa làng mười một xóm đi đạo. Ký ức xao xuyến trầm buồn của tôi là những mái nhà thờ hình chóp chọc lên trời xanh, cây thánh giá trên đỉnh gác chuông dầm trong dãi dầu mưa nắng. Và những cô gái mắt bồ câu, tròn, to lúc nào cũng mơ màng như mắt đức Mẹ Ma ri a.
Hơn mười giờ. Xe ô tô về đến đầu làng. Làng đạo đang mùa vọng, rộn dịp đêm Giáng sinh. Người chen vai người trong ánh điện sáng choang. Cái rét mướt đêm đông dường như ấm lại. Nhà thờ đạo mới xây còn thơm mùi ve vữa. Uy nghi. Và trầm mặc. Nhà thờ như một hình ảnh thu nhỏ của nước Chúa.
Tôi vẫn nhớ, cái nhà thờ xưa bị bom Mỹ đánh sập thành đống gạch vỡ, chỉ còn tháp chuông cao vòi vọi, uy nghi vươn lên tận trời xanh. Lâu ngày, um tùm cỏ, dây tóc tiên leo, và cây xấu hổ mọc trên gạch vỡ, hồ nát. Gần đây, người ta xây nhà thờ mới, nhưng vẫn giữ lại cái tháp chuông xưa.
Tôi như người chết sống lại. Bồi hồi, kỷ niệm xưa cũ dào dạt hiện về. Cứ như vừa mới hôm qua. Cứ như tôi đang sống những năm tháng tuổi thơ ở làng.
...Tôi học cấp ba trường huyện, cùng lớp có người bạn gái Hoàng Thị Mùi ở xóm đạo. Mùi mang tên thánh là Tê rê xa. Con gái xóm đạo ít khi được học lên cao như Mùi, thường chỉ hết tiểu học là nghỉ ở nhà dệt chiếu cói, hoặc dệt vải xô gai rồi lấy chồng. Tê rê xa - bạn tôi mắt to, tròn như mắt bồ câu, lông mi dầy cong vắt, màu mắt đen xanh mơ màng như mắt đức Mẹ Ma ri a. Làn da trắng nõn chuối. Tê rê xa bằng tuổi tôi, đã là thiếu nữ dịu dàng với những đường cong mềm mại gợi cảm. Nàng học khá, và khôn ngoan, hiểu biết hơn cánh con trai cùng lớp vụng dại như gà tồ. Cả lớp tôi đều gọi nàng là Tê rê xa Mùi.
Đêm Noel, Tê rê xa mời cả lớp đi dự lễ Giáng sinh. Tôi và thằng bạn con nhà chài lưới cuốc bộ sang bên kia sông đến nhà thờ Quảng Phúc thì người đã đông nghịt. Thằng bạn con nhà chài lưới bảo: “Đêm nay gặp Tê rê xa Mùi, mày nhường cho tao nói chuyện một lát nhé.” Tôi thủng thẳng bảo: “Ai cấm mày?!” “Đừng giận! Là tao thấy Tê rê xa Mùi có vẻ mến mày. Lúc nào có mặt Tê rê xa là mày độc chiếm, nói như điên không ai chen ngang được. Tao con nhà chài lưới, Tê rê xa có để ý đến tao đâu.” “Tao nhường cho mày nói chuyệt hết đêm, được chưa?”
Nói để mà nói, chứ tôi nhường sao được. Lòng tôi dạo rực, trái tim xốn xang mỗi lần gặp Tê rê xa Mùi. Cái cổ cao ba ngấn của nàng trắng quá. Cái khuôn ngực vồng căng và mùi da thịt nàng ám ảnh theo tôi vào giấc mơ trẻ trung, háo hức. Tôi ao ước, mơ tưởng sau này có đứa con gái, mắt to xanh đen mơ màng như mắt nàng. Con gái tôi cũng sẽ đứng cùng các trinh nữ trong ca đoàn nhà thờ...
Đèn nến thắp sáng lung linh, màu hồng ấm áp tràn ngập. Cố len vào trong cùng nhà thờ, chúng tôi tìm Tê rê xa. Tôi ngạc nhiên, thích thú ngẩn ngơ ngắm nhìn tượng chúa Hài đồng, đức Mẹ Ma ri a, Thánh Giu se, những con cừu nhỏ, máng cỏ và hang đá nhân tạo… lấp lánh trong ánh sáng màu hồng rực rỡ. Vị linh mục đang giảng đạo. Tôi nhìn người bằng con mắt ngưỡng mộ và thành kính: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời/ Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương…” Cha giảng Thánh kinh, cha nói đến bổn phận con chiên phải kính Chúa, yêu nước; đến nghĩa vụ người dân chăm chỉ lao động sản xuất; sám hối và chăm cầu nguyện…
Tê rê xa chưa ra đón chúng tôi được, nàng đang đứng trong ca đoàn. Ca đoàn là các cô gái đồng trinh mặc áo choàng trắng, đội mũ trắng, quàng khăn trắng. Một màu trắng ngời ngời, xao xuyến.
Thánh lễ Tạ ơn Chúa, Tê rê xa Mùi lĩnh xướng bài ca Đêm thánh vô cùng:
“Ðêm Thánh vô cùng, giây phút tưng bừng/ Ðất với trời se chữ Ðồng /Ðêm nay Chúa con thần thánh tôn thờ /Canh khuya giáng sinh trong chốn hang lừa / Ơn châu báu không bờ bến… / Ôi Chúa Thiên đàng, cam mến cơ hàn/ Nhấp chén phiền vương phong trần…/Sai con hiến thân để cứu nhân loại / Hang chiên máng rêu tạm trú /Bốn bề tuyết sương mịt mù...”
Thánh lễ linh thiêng, trang trọng và thành kính. Giọng hát chậm dìu dặt, da diết ngợi ca Đức Chúa Giê su hiến thân cứu thế. Hình ảnh này, giọng hát này dội vào cái đầu và trái tim non nớt của thằng con trai đang tuổi lớn, cứ mãi mãi đi theo tôi suốt cuộc đời, để rồi thổn thức và nuối tiếc hoài…
Nửa đêm, chúng tôi về nhà Tê rê xa Mùi. Bữa ăn Reveillon được dọn ra. Sau này, tôi mới biết Bữa ăn nửa đêm Giáng sinh ở phương Tây gồm ba thứ đồng hành là: Thủy (cá chép, con hàu); Không khí (gà tây, ngỗng); mộc (thịt lợn). Còn Bữa ăn nửa đêm Giáng sinh của người dân xóm đạo nghèo dạo ấy chỉ có bánh bột lọc làm bằng bột giong riềng và cá chép nấu cháo. Mẹ Tê rê xa Mùi là một con chiên ngoan đạo, nhân hậu, hiền lành, nhìn lũ trẻ háu đói ăn uống ồn ào, bà mỉm cười âu yếm.
Nấn ná, dùng dằng quá nửa đêm mà chẳng đứa nào muốn về...
Vợ tôi gọi điện, nàng bảo:
“Giáng sinh ở quê thế nào, anh?”
Tôi bảo:
“Vui. Đầm ấm.”
“Còn em, cái nơi em đi ấy?”
“Như Giáng sinh những năm trước. Không náo nức. Không vui. Không buồn.”
Có nghĩa là nàng cảm thấy suông, bình bình. Nàng không hỏi tôi, bao giờ về. Và cũng không nói lúc nào về với tôi. Nàng thờ ơ. Nàng không hề biết tôi đang vui hay buồn, đang đắng cay hay ngọt ngào. Con tôi không biết tôi có nhu cầu chia sẻ, và chúng cũng chẳng cần chia sẻ với ai.
Nhà tôi, bấn bíu vì ai. Ví dụ: Sáng ăn uống tùy nghi di tản, vợ phát cho mỗi người 20 ngàn đồng. Buổi ăn trưa công nghiệp 50 ngàn đồng ăn vội vàng ở tiệm, ở quán theo sở thích từng người. Bữa cơm tối gia đình mới tập trung. Tập trung nhưng mà không sum họp. Ăn uống lầm lỳ, im lặng, ít khi nói chuyện. Tôi nghĩ, cứ thế này thì trầm uất cả nhà. Tôi gợi chuyện, hỏi vợ:
“Em đang nghĩ gì?”
“Em đang nghĩ, nước mình mỗi ngày tai nạn giao thông chết 33 người. Có phải quân số bằng một trung đội không anh?”
“Trung đội đủ thì thiếu, trung đội thiếu thì thừa. Còn con gái nghĩ gì?”
Con gái tôi ậm ừ:
“Con bạn cùng lớp con chiều qua dọn ra ở riêng. Nó ở một mình, không muốn sống chung với bố mẹ. Nó có cái súng xịt hơi cay của Mỹ, bố ạ.”
“Con trai nghĩ gì?”
“Hôm nay, bố bảo: lúc bố chết cúng 100 ngày bằng thịt ba chỉ mắm tép, canh cua cà pháo. Hôm trước, bố bảo cúng lòng lợn tiết canh. Hôm trước nữa, bố bảo cúng thịt chó mắm tôm lá mơ. Hôm trước nữa, bố bảo cúng ốc nhồi hấp lá chanh. Hôm trước nữa...vv. Cái bàn thờ to như sân vận động Mỹ Đình mới đặt hết đồ ăn. Giá người chết mà biết ăn sạch trơn thì chẳng ai dám cúng, bố nhỉ.”
Giá người chết mà biết ăn sạch trơn... Tôi nổi gai ốc. Vợ chồng, bố con, chị em đang ở rất gần, đang ngồi cùng mâm cơm mà mỗi người một mảnh. Toàn là ý nghĩ xa vời. Chúng tôi đang ở bên nhau mà chẳng nghĩ gì đến nhau; cùng một ra đình mà cứ rời ra.
Hiện thực cay nghiệt quá, mà tôi không trốn chạy được.
Giá như trốn chạy được về dĩ vãng. Giá như được sống lại những ngày xưa ấy...
Ngày xưa ấy là... mùa vọng năm sau.
Chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ tràn ngập miền Bắc. Mùa đông 1972 lạnh lẽo mà đỏ lửa. Bom đạn tung tóe khắp làng quê. Tôi và hơn chục trai làng học cùng lớp khám sức khỏe đi bộ đội.
Ngày nhập ngũ cũng là ngày định mệnh của Tê rê xa. Ô tải chở chúng tôi đi khỏi làng mấy cây số thì máy bay Mỹ đến, bom rơi trúng nhà thờ. Những thằng trai làng vỗ vào ca bin bộp bộp, bắt ô tô quay trở lại.
Hoang tàn. Đổ nát. Ngổn ngang. Nhà thờ chỉ còn mỗi tháp chuông sứt mẻ nham nhở bên đống gạch vụn. Chúa đã không che chở được những con chiên của người. Tê rê xa Mùi như cây non bị phạt ngang gốc. Mảnh bom tiện đứt hai đầu gối nàng. Người ta đang ga rô cầm máu cho nàng. Một vệt máu nhỏ tươi hồng ứa ra từ vồng ngực căng đầy chảy xuống cổ ba ngấn trắng ngần. Đôi mắt bồ câu tròn cứ mở to nhìn trời xanh tức tưởi...
Sau này, ra quân, tôi về quê. Tôi đi tìm Tê rê xa Mùi. Mẹ tôi bảo, nàng vẫn còn sống. Sức sống con người thật diệu kỳ. Tôi chẳng hiểu vì sao Tê rê xa lại vượt qua cái chết mười mươi. Mẹ tôi bảo: u đi chợ qua xóm nhà thờ gặp Mùi; nó hỏi: “Anh ấy viết thư về cho bác, có nói gì về cháu không?” Sự vô tình nhiều khi cũng có tội; tôi không vô tình, nhưng tôi đã lảng tránh. Lảng tránh có phải là tội lỗi với một người tàn phế như nàng? Vài ba lá thư gửi cho Tê rê xa Mùi, tôi hỏi thăm sức khỏe, sản xuất chung chung; lời lẽ bình thường, không thân mật, chẳng vồ vập, tình cảm hững hờ, xã giao.
Tôi về xứ đạo, ván đóng thuyền rồi, nàng đã lấy chồng. Chồng là thằng bạn cùng lớp tôi – cái thằng năn nỉ tôi nhường để được nói chuyện với Mùi đêm Giáng sinh năm ấy. Ngày ngày, chồng tung lưới đánh cá trên sông Cái, đầm Vạc. Vợ ngồi nhẩn nha dệt chiếu cói cùng đứa con gái mắt cũng tròn to như mắt mẹ. Bình yên. Giản dị. Ấm áp... Tôi chẳng có lý do gì lưu luyến, nán lại bên Tê rê xa nữa; dù đôi mắt tròn to của nàng mọng nỗi buồn...
Những ngày xưa cũ chưa thật xa lắm. Tê rê xa bây giờ vẫn vẹn nguyên là Tê rê xa ngày xưa. Nhưng, vợ tôi đã không còn là vợ tôi nữa. Tôi nhận ra cái nửa kia không phải của mình từ lần vợ chồng nằm bên nhau, trần chuồng trong chăn. Tôi rúc vào nách nàng. Tay ve vuốt mông tròn và vòng eo thon. Tôi chìm vào đam mê, thăng đồng trần thế. Bất chợt, nàng bảo: “Anh ạ. Mả mẹ cái con hàng tôm. Bán cho em 5 lạng về nhà cân lại chỉ còn 4 lạng chín.” Tôi thụt chim lại. Lửa lòng tắt ngấm. Lạnh ngắt như đồng. Tôm với cá thì có họ hàng hang hốc, có liên quan đếch gì đến chốn giường chiếu? Nàng đang ôm ấp cùng tôi mà đầu nghĩ đến cá tôm. Nàng tha nhân ngay cả lúc tôi đang quằn quại trên bụng nàng.
“Mùi! Tê rê xa Mùi?”
Tôi ngỡ ngàng quá. Cũng đôi mắt bồ câu tròn to mơ màng ấy, cũng dáng hình thanh thoát, dịu dàng ấy, cũng vồng ngực căng đầy ấy.
“Bác ạ! Cháu là Mai mà.”
“Xin lỗi! Bác nhầm thật. Có phải cháu là... Tê rê xa Mai?”
“Vâng! Cháu con mẹ Mùi.”
“Bác nhận ra rồi. Cái con bé mắt to cứ ngồi bên go quấn sợi cói vào đầu lao cho mẹ dệt chiếu phải không?”
“Vâng ạ! Bác có khỏe không ạ?”
“Bác khỏe. Cháu thế nào?”
“Cháu học năm thứ nhất Ngoại thương. Nghỉ Giáng sinh, cháu rủ mấy đứa bạn trai gái cùng lớp về chơi. Ca đoàn dạo này thiếu người lắm bác ạ, cháu phải đứng vào hát.”
“Ừ. Lớn lên là chúng bay rủ nhau xa xứ hết. Cháu hát ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG chứ?”
“Vâng ạ! Silent night. Chốc nữa bác nghe cháu hát nhé.”
“Ừ. Đêm nay bác bồi hồi lắm.”
“Bố mẹ cháu cứ mong bác về suốt. Bữa ăn đêm Giáng sinh năm nào mẹ cháu cũng nhắc đến bác. Mẹ bắt cháu làm bánh bột giong riềng và nấu cháo cá chép. Mẹ cháu bảo, nhất định Giáng sinh năm nay bác sẽ về.”
Ấm lòng. Gần gũi. Thân thuộc quá.
Tôi có cảm giác mình vừa đi qua hoang mạc vô cảm, lạnh lùng miền băng giá đến cánh đồng cỏ mênh mông tươi xanh đầy nắng gió nhiệt đới. Tôi bắt gặp cái thuần hậu, da diết, vô tận đêm Giáng sinh. Tôi nghĩ đến túp lều đánh cá của người bạn chài lưới. Con thuyền nan có mui. Tiếng gõ ván xua cá lốc cốc. Tiếng go và lao cói dệt chiếu lách cách. Tê rê xa Mùi, Tê rê xa Mai có đôi mắt đức Mẹ... Tôi nghĩ đến căn biệt thự của tôi...
Tôi bước vào trong nhà thờ.
Máng cỏ. Hang đá. Chúa hài đồng. Những con cừu nhỏ... Ấm nồng. Đêm đông khuya khoắt rét mướt chỉ còn ở bên ngoài.
Tê rê xa Mai đứng kia, trong ca đoàn trinh nữ. Một màu trắng bình yên, xao xuyến. Giọng hát trong ngân. Da diết.
“Silent night/ Holy night / All is calm all is bright / 'Round yon virgin Mother and Child / Holy infant so tender and mild / Sleep in heavenly peace...”
Bao ký ức ngày xưa lại trở về, tôi yêu mến ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG.
ĐI QUA ĐỒNG CHIỀU
Tôi đánh xe trâu chở anh từ ga Xép về làng.
Tháng năm âm lịch. Cuối vụ gặt. Nước lấp xấp, đồng chiều trơ gốc rạ. Thỉnh thoảng sót lại một vài đám ruộng nhà ai đó chưa gặt, lúa trĩu bông vàng suộm. Tiếng dế nỉ non và tiếng chẫu chuộc nhảy tõm xuống nước. Muồm muỗm, cào cào, châu chấu nhiều vô kể, đậu xúm xít hai bên bờ cỏ, có con xoè áo khoác xanh, áo cánh đỏ làm dáng. Bước chân trâu đánh động những sinh vật nhỏ nhoi của cánh đồng bay rào rào lên thành muôn nghìn chấm nhỏ xù xịt trên không trung. Khói xanh ở gò Mã Giáng ngún thành vệt dài theo chiều gió nam thổi. Bọn trẻ trâu đang vơ rơm rạ khô, bùi nhùi bỏ thêm vào đống lửa đỏ. Mùi khói rơm mới lẫn mùi cào cào, muồm muỗm nướng thơm ngầy ngậy. Anh chỉ về phía đó, hỏi:
- Cô gì ơi! Bọn trẻ làm gì thế?
- Nướng cào cào.
- Người nhà quê hay nhỉ!
Anh cười cười, ngường ngượng. Chẳng biết anh khen hay là chê. Tôi hỏi:
- Anh chưa nhìn thấy cào cào bao giờ à?
- Chưa! Cô gì ơi. Cô chở thuê. Ngày nào cũng đánh xe trâu lên ga à?
- Một tháng đôi ba bận thôi. Tôi phụ thêm cho cha. Sao anh không đi xe ô tô lại ngồi xe trâu chở hàng của tôi?
- Ô tô lúc nào đi chả được. ở bên kia tôi có nằm mơ cũng không thấy xe trâu. Lộc cộc. Thô sơ. Thế mà sướng. Người nhà quê hay nhỉ?
Lòng tôi nhộn nhạo không yên. Anh thật ga lăng. Quần bò, áo thun, trên gực in hình con Kănguru. Một mớn tóc xoăn xoã trên trán, mắt rất hoang dã như mắt cừu. Tôi đã bắt gặp hình ảnh này ở đâu nhỉ? Phải rồi, ở đồng cỏ, đồng cỏ mênh mông nước Ôxtrâylia trong phim. Nhưng móng tay anh để dài hồng hồng trắng và nước da còn trắng hơn tôi, trắng hơn nước da con gái làng. Mùi nước hoa đàn ông ngàn ngạt, lạ lắm! Tôi không quen mùi này nhưng cố hít hít. Bất chợt, tôi nhìn xuống đôi tay mình: da dày sất sước vì đi gặt lá lúa quất, dằm thóc đâm.
Một người đàn ông đang cầm sào tre dài, ngọn buộc một mảnh ni lông trắng bay lấp phấp lội bòm bọp theo sau đàn vịt. Vịt kêu váng một góc đồng chiều, đít vịt ngỏng vếch lên, mỏ vịt cắm xuống sùng sục kiếm thức ăn. Nước đồng đục ngầu nổi bong bóng, gốc dạ toẽ ra khi đàn vịt đi qua. Vịt đàn ăn lúa rơi vãi nhiều nhưng đang độ đẻ rộ con nào con nấy gầy rạc.
Ho...ọ! Tôi kéo thừng giằng ở mũi con Đen dừng xe lại. Con Đen ngênh nghênh đôi sừng cánh ná, mắt đỏ đòng đọc nhìn đàn vịt lau chau vượt qua đường sang cánh đồng bên vừa mới gặt xong. Tiếng vịt kêu: Cạc... Cạc... Cạc... Rồi tiếng trâu rống: ọ... ọ... ọ.” Anh đứng hẳn người lên, chăm chắm nhìn đàn vịt:
- Cái ông kia buồn cười nhỉ?
Tôi bảo:
- Đuổi vịt. Ông ấy đang đuổi vịt.
- Người nhà quê hay nhỉ.
- Anh chưa nhìn thấy vịt bao giờ à?
- ừ! Anh chỉ biết cừu và Kănguru thôi. Em có biết Thế vận hội Xít Nây người ta lấy biểu tượng Kănguru không? Không à! Bao giờ Việt Nam mình là chủ nhà của Uôn Cắp chẳng hạn. Lúc ấy, nước mình lấy con gì làm biểu tượng? Lấy vịt? Hay cào cào nhỉ?
Anh lại cười. Chẳng biết anh nghĩ gì về nhà quê chúng tôi?
Trời sâm sẩm tối. Xe trâu dừng trước nhà bác Hán. Bác Hán vồn vã:
- Xem nào. Xem nào. Thằng cháu bác to bằng nào rồi nào. Ôi trời ơi! Cao lớn hơn thằng bố mày. Có dễ đến hơn mười năm mày chưa về quê ấy nhỉ? Bác cứ lo mày không biết đường về.
- Cả cái thành phố Xít Nây mênh mông chỗ nào cháu cũng biết. Huống hồ là cái làng quê bé tẹo này.
- Thế mày ngồi xe trâu có thích không?
- Thấy là lạ. Cháu muốn tìm cảm giác mới. Cứ như ngồi xe chó kéo của thổ dân úc ấy, bác ạ.
- Chuyến nghỉ hè này bác sẽ cho mày cưỡi trâu, cưỡi bò, cưỡi dê nữa. Để cho mày hiểu như thế nào là nơi bố mày với bác đã sinh ra và lớn thành người, thằng cò ạ.
- Cháu chỉ sợ vài ba hôm, mẹ cháu xót con lại đánh điện về bắt cháu đi.
- Đến bốn lần giỗ họ, sao bố mày không về?
- Văn phòng đại diện bên úc có việc gấp; không chờ cháu được, ba mẹ cháu sang trước. Ba mẹ gửi bưu điện biếu bác hai triệu đồng, bác nhận được chưa?
Bác Hán bảo:
- Vẽ. Tao nhà quê ăn tiêu gì mấy. Cái bác cần là tình cảm cơ. Giá bố mày đổi hai triệu đồng thành mỗi năm hai lần về nhỉ?
Tôi bỏ nốt túi du lịch xuống cho anh. Cộc... cộc... Con Đen đánh sừng vào ách xe. Sừng con Đen quệt nhẹ vào hông anh. Anh nhảy dựng lên:
- Chết tôi rồi!
- Cái thằng! Thần hồn nát thần tính. Chết làm sao được.
Bác Hán mắng to rồi dịu giọng dần. Tôi bật cười khúc khích. Anh bẽn lẽn, ngượng nghịu: “Cái sừng cánh ná khềnh khoàng. Cháu kinh quá.” Tôi chào bác Hán rồi tôi quất roi tre đét vào mông con Đen đánh xe đi. Anh chạy theo: “ới, cô gì ơi! Tôi trả tiền cô chở thuê.” Anh ấn vào tay tôi tờ năm mươi ngàn đồng, số tiền này đong được hơn hai thùng thóc, hoặc một yến cá mè hoa, hay mười gánh rau răm.
Rất sòng phẳng! Tôi nhận ra ánh mắt của anh, ánh mắt soi vào thân phận làm thuê của tôi? Không dấu được, làm thuê ở đâu cũng là làm thuê.“Xe trâu nhà tôi chỉ chở hàng. Ai thích. Cho đi nhờ thôi. Tiền nong gì.” Có cái gì đó chạy dọc cổ tôi nghẹn tức. Tôi nhét trả tờ năm mươi ngàn đồng vào túi áo ngực anh. Anh ngạc nhiên, bảo: “Người nhà quê hay nhỉ.”
Tôi tên là Na, thời bé tôi đi học sớm một năm. Năm nay, tôi mười bảy tuổi. Mười bảy tuổi đã bao nhiêu đêm tôi mơ được vào đại học như mấy chị ở làng. Vào đại học thích lắm! Được ra thủ đô học, được bay nhảy ở chân trời xa. Một chị bảo tôi: “Mày đã biết yêu chưa? Yêu hay lắm mày ạ.” Một chị khác nói: “Mày đẹp. Có khi con trai các trường khác xúm vào tán. Còn lâu mới học được.” Tôi rất mơ mộng, hay làm thơ. Người ta nói đàn bà dính với văn chương thường là nhọc nhằn, bất hạnh; lại bảo chỉ có làm sao đấy mới chạy trốn vào văn thơ? Con gái ở nông thôn làm thơ càng bất hạnh hơn. Sổ nhật ký của tôi đầy tâm sự, có gần một trăm bài thơ. Bài thơ nào cũng mang nỗi niềm bâng quơ, thoắt vui, chợt buồn đúng như cái tuổi mười sáu mười bảy của tôi vậy. Tuy nhiên, tôi dấu cha, dấu bạn bè, tôi làm thơ cho riêng mình. Cha tôi bảo: “Học nhiều chỉ tổ xí xớn theo giai. Đứng núi nọ trông núi kia làm gì. Tao không thể nuôi báo cô mày mãi. Lấy chồng đi cho xong chuyện.” Cha không cho tôi học tiếp. Chân trời xa của tôi chỉ dừng ở trong luỹ tre làng. Chả lẽ cuộc đời tôi cứ đi cấy, đi cắt cỏ, đi chăn dê và thỉnh thoảng đánh xe trâu thay cha lên ga Xép rồi lấy chồng?
Tôi lại nghĩ đến đồng chiều.
Tôi nghĩ về sự ngổn ngang cuống dạ.
Cuống dạ toẽ ra, nát nhừ khi vịt đàn đi qua.
Cuống dạ nhấn sâu dưới bùn khi chân trâu bước qua.
Đồng chiều vui, buồn, đớn đau, tủi hổ
Khi mặt trời đi qua, mặt trăng đi qua
Ngọn gió hoang lùa qua
Cánh cò cánh vạc bay qua
Bước chân người lam lũ đi qua
Mồ hôi trâu bò lẫn bùn non ngai ngái
Tôi cúi nhặt giọt mô hôi người thợ cày
Tôi lượm giọt nước mắt người thợ cấy
Tôi đau đớn, tôi gọi: Đồng chi...ều!...
Cha tôi biết chuyện.
Lúc ăn cơm, cha bảo: “Cái thứ nhà quê như mày ngàn đời nay vẫn ngu, Na ạ. Lòng tốt hão, nhiều khi lại tiếp tay cho thói kênh kiệu làm người ta kênh kiệu thêm. Cái bọn thành phố như nó chỉ muốn đè nén, áp bức nông thôn mình. Tội đếch gì mà sỹ diện hão. Sao mày không lấy tiền của lũ chúng nó đem cho cô Nếm điên ấy.” Tôi nhai trệu trạo, miếng cơm như miếng rơm rạ. Có vẻ như cha tôi rất ghét người thành phố, ghét đến mức đố kỵ. Theo ông thì nông thôn chỉ là bãi rác thải, là nơi dừng chân của người thành phố. Người nhà quê chỉ dùng lại đồ cũ, đồ hạng ba: Xe máy cũ, quần áo cũ, hàng hoá chất lượng thấp đều do người thành phố tuồn về. Họ bắt nạt sự ngu dốt của thôn quê. Còn các đồ ngon nhất người nhà quê lại đưa ra thành phố: Rau sạch, gà ri, lợn ỉn, dê, bê non, tôm hùm, cua bể... Bao nhiêu đồ ăn ngon người nhà quê đều cắp củm dành dụm mang bán cho người thành phố. Lẽ sống đời của người nghèo nông thôn vẫn là buôn trầu ăn chũm cau. Người nhà quê đều là người nghèo. Khổ thế!
Hoá ra, thời nhỏ, cha tôi và cha anh là bạn chăn trâu cắt cỏ rất thân nhau. Học hết cấp ba trường huyện thì số phận quẳng mỗi người đi một nơi. Nhà nghèo, cha tôi phải ở làng theo đít trâu, đi cày. Cha anh học lên đại học, lấy vợ người Hà Nội, cũng chả thấy cha anh đưa vợ về quê bao giờ. Người nhà quê bảo: “Con mẹ ấy không dám về nông thôn. Đi đường giẵm phải cứt trâu, ra vườn đạp phải cứt chó, ngồi trên hố xí hai ngăn, hơi thối bốc lên đít, nhìn xuống thấy bọ nhung nhúc, con mẹ Tràng An ấy chịu sao được. Người thành phố thơm tho sạch sẽ quen rồi...” Lâu lâu, cha anh mới đảo về quê một lần. Cha tôi bảo: “Đấm thèm vào mà ra Hà Nội.” Tình cảm cứ nhạt dần. Nhạt là phải! Tình cảm như con vật, con vật không được nuôi dưỡng chăm sóc con vật ốm o bệnh tật rồi chết. Tình cảm mà không năng đi lại vun quén, tình cảm chẳng còn. Mấy chục năm, thời gian biến cải, cha anh đã là một nhà kinh tế luôn sống ở nước ngoài, cha tôi vẫn là một thợ cày quanh quẩn từ làng ra đồng, từ đồng về làng. Xa nhau cũng là điều dễ hiểu.
Tôi về một lúc thì trăng lên. Trăng neo trên ngọn cây cau, đứng im phăng phắc. Không thấy gió thổi, chẳng thấy mây trôi. Thôn quê ngưng đọng tĩnh lặng quá. Cứ mãi thế này ốm mất.
Bên nhà bác Hán, anh bảo cái Hương: “Chiều nay, em đi xe trâu người ta không lấy tiền.” Cái Hương nói ngay: “Người ta là bạn chị đấy.” Anh khen: “Bạn chị xinh nhỉ. Người eo tuyệt vời. Con gái nhà quê, eo đẹp thế là sự lạ. Cái mũi dọc dừa. Mắt như mắt nai. Xinh lắm! Nhưng mà tù hãm, đôi mắt đang báo hiệu một sự tù đọng” Cái Hương hỏi: “Thăng nhìn thấy mắt nai ở đâu, đi săn thấy ở rừng à?” “Không. Em thấy ở trong vườn bách thú.” “Thế ra Thăng bảo bạn chị như con nai đẹp bị nhốt trong vườn bách thú, hở?” Anh chỉ mỉm cười thay cho câu trả lời. ấy là hôm sau cái Hương kể cho tôi nghe. Nghe biết vậy, càng thêm buồn.
Đường làng lênh loáng ánh trăng, màu vàng bát ngát trùm lên xóm mạc. Đang kỳ nghỉ hè, thỉnh thoảng bọn trẻ con lại chạy bình bịch lên trước mặt rồi đánh ào một cái ẩn vào bụi cây bên đường. Chúng đang chơi đánh trận giả. Anh và cái Hương đến cái giếng mặt nguyệt ở đầu làng. Tôi đang ngồi ở thềm giếng gội đầu. Mặt giếng tròn vành vạnh. Trăng nhởn nhơ soi mình dưới nước. Xung quanh rơm rạ cuối vụ gặt còn phơi đầy, vương cả vào thềm giếng. Tôi cầm nắm lá bưởi vò nhàu thả vào chậu nước gội đầu. Mùi lá bưởi xanh hăng hăng xộc vào mũi. Cái Hương bảo: “Tao biết ngay mà. Thế nào mày cũng ở đây.” Tôi ngước mắt lên: “Đồ ỡm ạ.” “Thăng có biết ai đây không?” “Đây là cô gì đánh xe trâu chở thuê.”
Cô gì đánh xe trâu... Tự nhiên tôi chạnh lòng, buồn. Cái Hương bảo:
- Bọn con gái nhà quê chúng tôi thường gội đầu bằng nước quả bồ kết nướng. Một tháng vài ba bận gội bằng lá bưởi.
- Người nhà quê hay nhỉ?
Lại cái câu chết tiệt lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần này.
- Chứ không à. Bọn con gái thành phố, toàn dùng dầu gội đầu đóng hộp. Chắc gì cái nào hơn cái nào.
Lát sau, mùi hăng gắt mất đi, chỉ còn mùi lá bưởi thơm thoang thoảng. Tôi đứng dậy túm tóc quay vù vù, bụi nước bắn vào cả mặt anh. Tôi nghĩ đến quả bồ kết, đến lá bưởi và chuyến xe trâu đi qua đồng chiều, nghĩ đến tôi, đến thân phận của các cô gái làng.
Cái Hương bảo: “Thăng có biết bao nhiêu đôi lứa nên vợ nên chồng ở cái giếng này không?” Tôi giơ tay hong tóc dưới trăng, giục giã: “Hương kể cho anh Thăng nghe đi.” “Kể thì kể.”
... Ngày trước, yêu đương nhau, các cụ gọi là phải lòng í, có được tự do đi chơi bời, hôn hít nhau như bây giờ đâu. Muốn nhìn nhau, muốn nói với nhau câu gì, muốn hẹn nhau cái gì cứ xách thùng ra giếng làng gánh nước. Trai nhìn thấy bắp chân trần trắng nõn của con gái, động lòng ham muốn và yêu. Gái làng nhìn vồng ngực căng đầy nở nang, bắp tay săn chắc như cuộn chão của trai làng là động tình, yêu. Không có giếng làng chưa chắc họ đã thành vợ thành chồng. Lại có người đàn bà ra thành giếng vỗ bồm bộp: “Giếng ơi giếng. Tao thù mày. Tao thù mày. Không có giếng tao chẳng gặp cái thằng bạc tình ấy.” Chị ta điên vì thất tình, vì bị phụ bạc. Không có giếng làng chưa chắc chị ta đã bị phụ tình. Ngày ấy, chị ta là chị; bây giờ là cô - cô Nếm ba mươi lăm tuổi vẫn điên vì tình...
- Người nhà quê hay nhỉ?
Cái Hương thật thà:
- ừ, người nhà quê hay thật. Chúng mình đi dong đường chơi nhá. Đứng đây mãi bất tiện, người làng ra múc nước lại đồn nói chuyện với giai.
Tôi cũng nói:
- ừ. Đừng đứng đây. Mang tiếng lắm.
Ba chúng tôi đi bộ ra cây đa đầu làng. Đường làng toàn gạch Bát Tràng lát nghiêng, có chỗ đi lại nhiều gạch lõm xuống. Gốc đa đầu làng vắng ngắt. Đa chín rơi bộp, bộp. Tiếng chim đi ăn đêm thả vào không trung thanh vắng. Cái Hương bảo: “Na, đưa chậu tao tìm chỗ dấu cho. Đi chơi ai lại cầm chậu thế này.” Cái Hương giật chậu nhựa từ tay tôi đi cùn cụt. Mãi chả thấy cái Hương quay lại. Anh bảo: “Cô gì ơi. Tôi ở bên úc về lạ nước lạ cái. Cái gì cũng lạ. Cô cho tôi đi thực tế nông thôn với.” “Anh Thăng hãy gọi em là Na. Tên quê mùa lắm phải không?”
Tóc tôi buông dài hong gió. Anh đi bên tôi, xa lạ và gần gũi. Mười bảy tuổi, lần đầu tiên tôi đi cùng một người con trai. Anh từ đâu đó đến, vụt sáng chói loà. Những thằng bạn ở lớp, những đứa con trai ở làng chỉ còn nhỏ bé, dại dột và mờ nhoà trong tôi. Bất ngờ, anh vơ tóc sau lưng tôi, tay anh chạm phải dây nịt vú. Tôi rùng mình, run dẩy. “Tóc em đẹp lắm.” Cả mớn tóc chưa khô ấp vào mặt anh. “Mùi lá bưởi, mùi đồng quê.”Anh thì thầm, anh quàng tay lên vai tôi. Người tôi nóng ran ran. Anh xoay người kéo tôi vào lòng ôm chặt. Ngực tôi căng cứng dềnh lên từng đợt, từng đợt. Bàn tay có những móng dài lần tìm ngực tôi trong làn áo. Một cái móng tay dài chạm vào núm vú, tôi như người bị điện giật. “Đừng anh!” Nói, nhưng tôi không đẩy tay anh ra. Lần đầu có người con trai chạm vào da thịt tôi.
Bất chợt có tiếng chửi vọng ra từ cái nhà kho cũ đã sạt một góc của Hợp tác xã. Tôi giật mình. Giọng đàn bà, chửi rất bài bản, ngoa ngoắt. Chửi rằng:
Cha tiên sư thằng đi qua
Cha tiên sư con đi lại
Mày bày mưu lập mẹo
Mày bắt con của bà
Bà chửi mày:
Cho trốc mồ lật mả
Cho quạ nó tha
Cho gà nó mổ.
Cho chết sông chết chợ
Chết vợ chết chồng
Chết cả tông giống năm đời,
mười đời nhà mày nhá...
Tôi đã ra khỏi vòng tay anh từ lúc nào. “Lạ quá! Chưa bao giờ anh được nghe đàn bà chửi như thế này. - Anh bảo vậy. - Chửi rất ngoa ngoắt nhưng không tục tĩu, nghe như hát, như xướng khúc đồng dao, như mê hoặc lòng người. Trong các đường phố Xít Nây hay những đồng cỏ mênh mông nước úc, người ta cũng chửi nhưng cục cằn, thô lỗ; khác thế này lắm.” Tôi nói: “Cô Nếm đấy. Đêm nào cũng chửi. Chửi sốt ruột. Có đêm em không ngủ được, nghe mãi cũng thuộc các bài chửi.” “Cô gì cũng giỏi nhỉ?” “Thật đấy! Anh có ai bắt nạt, em đến chửi thuê cho.” “Hay. Người nhà quê hay nhỉ?”
Chẳng ai biết cô Nếm từ đâu đến. Cô là người đàn bà bị phụ bạc tình phát điên bên giếng làng. Người lại bảo cô ở trên mạn Khánh Thượng xuống. Dân làng đã quen với tiếng chửi của cô Nếm điên mười mấy năm rồi. Cô không nhà cửa cô đi lang thang, nay cấy thuê cho nhà này mai gánh phân cho nhà kia. Cho tiền biết cầm; cho cơm, dong giềng, khoai lang luộc biết lấy ăn. Ban ngày đi làm thuê, ban đêm về nhà kho cũ, hoặc thềm hè nhà trẻ ngủ, ngủ không chăn không chiếu. Một ổ dạ là đủ vừa nằm vừa đắp. Mùa đông cũng như mùa hạ, cô Nếm điên sống trơ trơ cùng nắng mưa giá rét. Được cái trời thương, trời cho cô sức rất khoẻ. Chỉ phải mặt nhàu nhĩ nhăn nhúm, còn đùi vế nần nẫn, hai vú thây lẩy. Dường như thời tiết mưa nắng, giá lạnh bất lực trước sức khoẻ của cô. Cái sinh lực tràn đầy nóng hổi của người đàn bà điên ấy không biết là sự may mắn hay bất hạnh. Những đêm mưa dầm dề lê thê, những đêm đông lạnh giá kinh người có sức quyến rũ mời gọi bọn đàn ông đổ đó, đơm lờ, trúm lươn đêm mò đến. Lại những trưa, cô Nếm cấy thuê ở đồng không sông quạnh gặp bọn đun riu, kéo vó, đun te. Lúc ấy, không phải người với người nữa mà hoàn toàn là khát thèm sinh vật. Cứ vài năm, lại thấy cô Nếm chửa, bụng to kễnh. Không ai biết cô đẻ ở đâu, và những đứa bé ấy ai rình bế mất, bế đi đâu? Chỉ biết ắng đi vài ngày lại thấy cô xuất hiện với cái bụng lép kẹp, lại đi làm thuê. Gái mới đẻ đi làm thuê và chửi rất kinh. Chửi ngày này qua đêm khác, cô chửi rất to kẻ nào bế trộm con cô...
- Chửi tài thật. Người nhà quê hay nhỉ?
- Thôi, về đi, anh Thăng. Nghe cô Nếm chửi sốt ruột.
Tôi và anh về ngõ nhà bác Hán lúc cái Hương đang khoá cổng chuồng dê. “Chậu tao để trong sân kìa. Hai đứa về ăn ốc.” Hương ghé tai tôi nói nhỏ: “Tao giả bộ giấu chậu, về trước cho hai đứa mày tự do.” “Đồ nỡm. Thôi tao về đây chẳng chết với ông già.” “Sướng bỏ bà còn làm bộ”.
Sáng hôm sau, nhà tôi đánh gốc tre. Bụi tre đã chặt từ mấy tháng trước ngâm dưới ao, móc bùn phủ lên để sau này làm bếp. Bụi tre như cái nong, dày chi chít, cây nọ chen cây kia, giờ chỉ còn gốc. Cha tôi nhờ bác Hán sang đánh giúp. Bác Hán cởi trần, mặc quần đùi, người vai u thịt bắp, khoẻ lắm. Phập... Choạc. Phập... Choạc. Bác có xà beng và cái búa như lưỡi tầm sét của Thiên Lôi. Mới hưng hửng sáng, bác đã đánh được một góc bụi tre. Tôi đứng vòng ngoài phụ giúp nhặt củi xếp thành đống. Anh Thăng sang, bảo:
- Tối hôm qua mút ốc ao. Kinh quá.
Tôi tự ái lây, bảo:
- Anh thì cái gì cũng kinh. Nhà quê chỉ có thế thôi.
- Thật đấy. Anh bước vào sân đã thấy bác Hán gái, chị dâu cả, chị Hương cùng xúm vào rổ sề ốc luộc. Bác Hán gái bảo: Thăng ngồi xuống đi. Chị cả ngồi lui ra một tý nào. ốc ngon lắm, cháu ạ. Anh ngồi xuống chả biết cách ăn làm sao. Bác Hán gái dạy: Cháu cầm thế này này, đưa đít ốc vào răng hàm cắn một mẩu nhỏ, xoay con ốc lại đưa mồm nó vào miệng mình. Mút. ừ. Mút đánh chụt một cái. Đấy, ngon chưa? Anh làm thử, cắn đít ốc ê răng, mút chụt... chụt mấy lần thịt ốc vẫn chẳng ra. Cứ như thời ăn lông ở lỗ! Không ăn nổi, đành thôi. Thổ dân úc thời nguyên thủy cũng chỉ ăn đến thế là cùng. Kinh bỏ cha. Bác Hán gái bảo: Chẳng biết bên úc người ta có mút ốc thế này không, cháu?
Bác Hán dừng búa bổ gốc, gạt mồ hôi trán: “Thằng này mất gốc rồi. Để tao bảo thằng bố mày.”Anh làm ngơ, nói lảng: “Bác cho cháu bổ thử vài cái”. “Tiên nhân mày. Tay học trò trắng thế kia thì làm ăn nỗi gì.” Anh Thăng bổ. Phịch... phịch... vài cái thì văng búa. Lại lấy bổ tiếp: Phịch... phịch. Mệt quá bỏ búa, cầm xà beng. Cuối cùng bỏ nốt. Cha tôi đánh xe trâu về đến cổng nhìn thấy. Ông để nguyên cả ách trâu bước lại gần: “Hỏng! Cái giống học trò trói gà không chặt chúng mày chỉ giỏi tán gái là nhanh. Trông mong gì lũ trẻ chúng mày. Thôi, để chúng tao múa. Đàn ông gì èo uột quá.” “Bác cứ nói thế chứ. Mỗi thời mỗi khác.” Anh ngường ngượng, mặt đỏ nhừ. Không biết bên úc người ta có tre để mà đánh gốc không nhỉ?
Buổi chiều, tôi đánh xe trâu ra đồng cắt lúa với cái Hương đổi công đánh gốc tre của bác Hán. Khoảnh lúa cuối cùng của nhà cái Hương cào cào, châu chấu, muồm muỗm nhiều vô kể. Cứ như cả cánh đồng chúng dồn nốt vào mấy khoảnh cuối cùng. ở góc đồng sát gò Mã Giáng, anh Vường đang úp nơm uồm uồm, bắt cá. Cái anh này là tay sát cá hạng nhất ở làng. Có buổi chiều, ruộng cạn nước, anh cạy tiểu sành vỡ nắp bị chòi ra ở chân gò. Cá trê ở trong tiểu đựng xương cốt người, lúc nhúc béo vàng ươm. Anh thò tay vào gạt xương bắt từng con một bỏ vào giỏ. Sáng hôm sau, vợ anh Vường đi chợ sớm bán cá. Từ hôm ấy, nhà tôi không bao giờ mua cá của anh Vường. Sau này, cứ thấy cá trê kho trong nồi là nghĩ đến các gióng xương, tôi nôn, nôn thốc nôn tháo.
Anh Thăng cũng ra đồng gặt. Tay lêu hêu cầm liềm trông rất buồn cười. Anh gọi tôi: “Cô gì ơi! Tôi đi khắp nơi, nhưng về quê tôi vụng lắm. Cô dạy tôi cắt lúa nhé.” “Nó là Na. Thăng cứ tên Na mà gọi.” “à. Vâng! Na dạy tôi nhé!” Cái Hương nhay nháy mắt, trêu anh: “Có mỗi cái tên mà quên thì nhớ người nó sao được.” Tôi lại gần anh: “Anh nhìn em làm đây này.” Xoẹt. Lưỡi liềm đưa rất nhanh. Anh làm theo. Trời ơi! Cắt lúa mà như cò cưa, cò cưa. Tôi và Hương phá lên cười.
Anh gọi: “Cô gì ơi! à quên. Na ơi. Năm nay Na thi vào đại học gì.” Tôi bảo: “Em vào đại học tiếng Anh, gọi là Cay Đì.” “Lại có trường đại học ấy nữa. Tên lạ nhỉ?” Cái Hương lanh chanh: “Cay Đì tức là đi cày. Sao Thăng tồ thế. Có vậy mà cũng không hiểu. Bố nó không cho đi học bắt ở nhà cấy cày, đánh xe trâu, chăn dê. Nó đang buồn đấy.” Anh có vẻ nuối tiếc cho tôi: “Thời đại này là thời đại bằng cấp. Chỉ có học và học, học mới thoát khỏi đồng ruộng, con trâu cái cày. Cô gì không học, rất gay...” Càng nghe anh nói tôi càng buồn. Tôi buồn cho thân phận không thoát khỏi làng của tôi. Anh lại hỏi Hương: “Còn chị Hương, em thấy trên bàn chị toàn sách Địa lý, Văn học. Lịch sử Việt Nam.” “Mình muốn sau này làm nhà sử học.” “Chị Hương nên học toán. Thời đại này là thời đại toán, tin học. Chị có biết vì sao kinh tế Việt Nam mình thua kém thế giới không? Không à! Là vì Việt Nam mình không có một nền toán học cho ra hồn. Thời đại tin học kỹ thuật số mà chị còn ngồi nhai nhải Nguyên nhân thất bại của Cao trào Xô viết Nghệ tĩnh thế là không thực tế.” “Mỗi người một đam mê, Thăng thích tin học nhưng chị thích làm nhà sử học. Thày giáo chị bảo: Làm dân nước Việt không biết sử nước nhà là không biết hồn nước. Thăng có biết ông tướng nào là Tổng chỉ huy đánh Điện Biên Phủ không?” Thăng ngập ngừng: “Ông...ông... à mà em không biết thật.” “Không biết thật?” “Vâng! Ba năm học phổ thông trung học bên úc, người ta không dạy em học Lịch sử Việt Nam.” “Phải rồi! Thăng sẽ học lịch sử, địa lý, văn học nước úc chứ. Lại còn các môn khoa học xã hội và nhân văn khác? Thăng mang trong người văn hoá gốc nước Việt hay nước úc nhỉ?” Không ngờ cái Hương đáo để thật. Anh ngượng nghịu, hơi cúi người rồi bỏ liềm, giả vờ đi bó lúa; cũng lội lọp sọp, lọp sọp, nhưng bước không vững, người cứ như sắp ngã. Đúng là giời đày!
Anh bắt gặp bắp chân trần của tôi. Anh cúi ôm lúa và mon men đến gần. Anh dán mắt vào bắp chân trần trắng vấy bùn của tôi và cố tình cúi chạm tay vào. Người tôi tê tê, tay rơi cả nắm lúa đang cắt.
- Thăng bắt muồm muỗm, cào cào đi. Gặt xong chúng mình đốt lửa nướng.
Có lẽ cái Hương đã nhìn thấy anh vuốt bắp chân tôi? Anh Thăng nghe lời bỏ liềm, bỏ bắp chân tôi, đi chộp cào cào. Tôi và cái Hương thỉnh thoảng bắt được con nào đều vặt chân bỏ vào mũ anh đang bưng.
Chất lúa lên xe trâu xong, tôi và Hương vơ rạ rơm khô người ta phơi ở gò Mã Giáng nổi lửa. Anh Thăng nghiêng mũ đổ cào cào, muồm muỗm vào. Râu, cánh, cháy khét, mỡ reo xèo xèo. Dập lửa bới tro, con nào con nấy bụng chín vàng, căng mọng. Hơi lửa làm mặt tôi và cái Hương đỏ hồng, mắt lúng liếng sáng. Anh Thăng nhìn tôi chăm chắm. “Thăng! Ăn đi nào.” Anh giật mình: “Em không biết cách ăn.” “Na! Mày dạy Thăng, hộ tao.” Tôi hướng dẫn anh vặt đầu muồm muỗm, vặt chỗ cánh cháy còn lại mà tay luống cuống quá. Vừa ăn vừa tán chuyện, ngón tay, miệng, cằm đứa nào cũng nhọ nhem. Anh bảo: “Người nhà quê hay nhỉ?”
“ối giời ơi!”- Suồm ... suồm. - “Người chế...ết...” Phía góc đồng sát gò Mã Giáng, anh Vường bỏ nơm chạy uồm uồm lên bờ. Sao lại có người chết nhỉ? Người cứng bóng vía như anh Vường mà còn hốt hoảng thế. Ba chúng tôi chạy đến. Anh Vường đã trấn tĩnh lại. “Trẻ con... trẻ con chết. ở kia kìa. Tôi úp phải.” Cái Hương bảo: “Anh thử lật nơm lên xem nào. Có khi trông gà hoá cuốc. Cái bắp chuối nhà nào vứt cũng nên”. “Thật đấy! Xác trẻ con. Tôi thò tay vào trong quờ phải.” Anh Vường lại lội xuống rồi thò tay nắm cổ nơm nhấc mạnh. Một cái xác trẻ sơ sinh (một cái thai thì đúng hơn) nổi lên và cái tã đụp màu nâu lều lều. Thôi rồi! Tôi đã nhận ra cái tã cô Nếm điên khoác mấy hôm trước đi gặt thuê cho nhà tôi. Hôm ấy, bụng cô mới lùm lùm, còn lâu mới đến tháng đẻ. Hay là cô Nếm sảo non. Nhưng ai là người theo dõi cô sảo non và vùi cái thai chưa thành người xuống đồng? Cái Hương mặt rất đăm chiêu. Anh Vường đã điềm nhiên trở lại làm việc nghĩa. Còn anh Thăng mặt kinh hoàng bạc phếch, miệng lẩm bẩm: “Tối tăm quá. Dã man... dã man quá.” Buồn! Tôi lại nghĩ về những sinh linh ở làng: Nhỏ nhoi. Mong manh. Và bấy dậy...
Đi qua liêu trai đồng chiều!
Bỏ lại cuộc sống xô bồ, đập va
Tôi đi qua, anh đi qua
Hãy lắng nghe
Gió hoang đuổi nhau hú gọi những linh hồn.
Nức nở luân hồi
Một, hai sinh linh, cả ngàn sinh linh...
Các xó xỉnh tối tăm
Những lương tri man dợ
Đâu những vì sao, đâu ngọn nến cháy...
Lại một buổi chiều. Một buổi chiều nữa đi qua. Tôi đánh xe trâu về đến cầu Lồng, dừng lại xem bọn trẻ con cắt cỏ, chăn bò đánh chắt đánh chuyền. Những đuôi tóc hoe vàng vì cháy nắng, những gương mặt sạm gió, những đôi mắt trong veo ngơ ngác. Cười và lại cười. Mắt lấp lánh dải que chuyền, tung quả găng.
Chuyền chuyền một.
Ăn củ khoai
Chuyền chuyền hai
Thích con trai
Chuyền chuyền ba
Ra con gái
Chuyền chuyền bốn...
Rồi lại:
Về làng
Phá cỗ
Xa làng
Xin ăn
Đi qua đồng
Về sang sông
Một cây ngô đồng
Hai cây ngô đồng
Gần thì nhớ
Xa là quên
Về qua sông
Đi qua đồng...
Xe ô tô tránh xe trâu của tôi và đỗ ở đầu cầu. Bọn trẻ con vội vã đứng dậy và dụi mắt tránh bụi. Cái Hương xuống xe chạy ngược về phía tôi: “Tối qua tao sang mày đã ngủ sớm. Tao đi Hà Nội đây.” “Mày đi thật à.” “Chú tao đánh điện về. Ra đó học ôn thì mới đỗ vào đại học.” Con Đen bị ruồi trâu cắn cứ dậm chân đòi đi, đuôi quất lên lưng đèn đẹt. Hai sừng cánh ná đánh cồng cộc vào ách vai. Anh đứng bên cửa xe, từ xa nói với đến: “Chị Hương cẩn thận. Cái sừng cánh ná con trâu kinh lắm.” Tôi lại hỏi: “Mày đi thật à?” “ừ, tao đi nhá.”
Cái Hương vội vã chạy quay trở lại. Anh kéo rộng cửa xe cho Hương vào. Vẫn bộ đồ hôm anh về đi nhờ xe trâu nhà tôi: Quần bò, áo thun có in hình con Kănguru. Anh chui vào xe, thò đầu ra ngoài giơ bàn tay có những móng dài trắng hồng vẫy vẫy: “Cô gì ơ... ơi! Tôi đi nhé.”
Một đám bụi mù cuốn sau xe ô tô con.
Tôi ứa nước mắt. Tôi nhìn xuống dưới ngực, cảm giác có các ngón tay móng dài, trắng hồng của anh đang lùng sục trên bầu vú như đêm trước hiện về. Tôi tủi thân. Hoàng hôn đỏ ối một góc chân trời. Tôi đánh xe trâu về...
Gió thổi.
Gió thổi miên man đi qua cánh đồng chiều.
NANH SẤU
Người ta bảo đạo diễn Lê Mãnh là một người tài ba, đức độ. Bằng chứng là dưới bàn tay ông cả chục diễn viên trở thành những gương mặt sáng giá. Không hiểu vì lí do gì, trong số những cô gái đẹp ấy, có nàng còn tiếp tục lên màn ảnh đều đều, lại có nàng chỉ xuất hiện một lần rồi thôi hẳn.
Lê Mãnh có cái thú ăn thịt thỏ rán và uống rượu sâm panh từ hồi ông còn ở nước ngoài học đạo diễn. Chuồng thỏ đặt ở góc sân. Những chú thỏ trắng ngơ ngác mua về ông chỉ nuôi thêm vài ngày trong lồng sắt rồi thịt. Lê Mãnh coi thú ăn đó như một kiểu chơi, nên nhiều con thỏ non đã bị ông thịt, ông" măm "một cách không thương tiếc.
Lê Mãnh đã trải qua vài ba cuộc tình tưởng như sắp cưới đến nơi. Nhưng có thể người ta bỏ ông, hoặc ông bỏ người ta. Đã năm mươi tuổi, ông vẫn sống độc thân trong căn nhà ba tầng, đầy đủ tiện nghi đắt tiền. Nhà ông có mảnh sân đặt cây cảnh thường là nơi bạn bè, đồng nghiệp đến giao du. Tầng một ông để tiếp khách, tầng hai vừa là nơi làm việc vừa là nơi ngủ: cũng là nơi dành riêng để ông tiếp một số cô gái trẻ đẹp thường lui tới. Còn tầng ba ông đặt bàn bi a để thư giãn.
Lê Mãnh đang chuẩn bị làm một bộ phim về đề tài chiến tranh. Ông và đồng nghiệp đã mất khá nhiều công phu đi tìm diễn viên phù hợp với kịch bản và ý đồ sáng tạo của ông, nhưng vẫn chưa tìm ra. Băn khoăn vì những ý định chưa thực hiện, Lê Mãnh ngả người xuống đivăng thả hồn vào tâm tưởng.
- Cạch... cạch...cạch.
- Mời vào!
Lê Mãnh ngồi ngửa mặt lên trần nhà rít thuốc ba số. Ông trầm tư thả những vòng khói tròn tròn bay lên, rồi tan biến vào không trung.
Trần Lâm, trợ lý đạo diễn bước vào. Bên cạnh anh ta là một cô gái trẻ non tươi như một con thỏ bạch. Lê Mãnh giật mình trước vẻ đẹp mộc mạc, đơn sơ, hoang dã như bông hoa đồng nội của cô bé. Trần Lâm đến sát bên Lê Mãnh nói nhỏ vào tai ông: “Thưa anh! Cô gái này rất hợp với vai Hà trong bộ phim của anh. Một cô gái quê thứ thiệt, sắp tốt nghiệp đại học, đang học thêm khoá đào tạo diễn viên điện ảnh của nhà văn hoá thành phố.” Hắn quay sang cô gái: “Giang ở lại đây nói chuyện với đạo diễn Lê Mãnh.” Hắn lại ghé sát vào tai Giang: “Đây là cơ hội để em có tiền và nổi tiếng đó. Hãy cố gắng và phải biết vâng lời nghe em.”
Trần Lâm đi ra, cánh cửa phòng khép lại. Giang ngồi nem nép vào góc đivăng. Căn phòng sang trọng quá. Bất giác, Giang nhớ về xóm nhỏ bên dòng sông Vàm Tàu và người mẹ nghèo khó bị bệnh, cô vừa đưa từ quê lên thành phố đang nằm viện.
Lê Mãnh vẫn ngồi nhâm nhi ly rượu sâm panh. Ông mở to mắt nhìn thẳng vào mắt Giang. Cô bắt gặp cái nhìn của ông đạo diễn. Cái nhìn có ánh sáng ma quái làm Giang cụp mắt xuống không dám nhìn lại. Giang có cảm tưởng mình là con thỏ non đang mắc trong hàm cá sấu. Cô dúm dó, sơ sệt. Lê Mãnh chợt cười khe khẽ:"Tôi biết cô chưa hề đóng phim, nhưng tôi sẽ giúp, hi vọng cô sẽ thành công". Giọng Lê Mãnh có vẻ thân mật, quyến rũ, phá tan bầu không khí im lặng trong phòng. Giang mạnh dạn hẳn lên: "Dạ! Cháu xin chú dạy bảo". Lê Mãnh bật cười. Ông nhìn mớ tóc xoăn xoăn xoà trên vầng trán hơi rộng và cái mũi cao thật đáng yêu của Giang: "Cô thấy tôi già lắm sao?". Giang rụt rè trả lời: "Không! Thưa anh...". Ông đạo diễn đứng dậy, bảo: "Giang yên tâm! Đại loại công việc thế này..."
Giang bị chinh phục ngay bởi giọng điệu ông đạo diễn nói về nhân vật trong phim mà cô sắp đóng. Giọng ông Lê Mãnh lúc chùng xuống rồi đột ngột vút lên, lúc sang sảng lúc da diết, bâng khuâng. Trước mắt Giang là dòng sông hiện ra và cô gái mòn mỏi chờ người yêu. Rồi ngày chiến thắng, chàng trai đã có vợ. Cô gái thấy mình bị phụ bạc. Cô đứng ở nơi ngày trước đã hò hẹn. Cô gái hồi tưởng... nụ hôn... vòng tay...
Ông đạo diễn cắt ngang dòng suy tưởng của Giang: "Cô có điều gì muốn nói không?". Giang chợt bừng tỉnh: "Dạ thưa chú...à... thưa anh! Em hổng có ý kiến gì ạ". Lê Mãnh nói bằng một giọng rất đằm: "Em ngoan lắm. Bản hợp đồng đây, Giang đọc và ký vào. Sau đó gặp chủ nhiệm phim và thủ quỹ tạm ứng trước một nửa tiền cátxê, nửa còn lại sẽ thanh toán khi bộ phim quay xong".
Giang đọc lướt qua. Tay cô run run ký vào bản hợp đồng. Giang tưởng mình đang mơ. Rồi đây cả nước sẽ ngắm nhìn gương mặt cô. Tên tuổi của Giang sẽ nhan nhản trên các tờ báo và tạp chí. Cô không ngờ mình được mời đóng phim mà lại là phim của một đạo diễn nổi tiếng. Giang sung sướng, nước mắt ứa ra. Món tiền cát xê không nhỏ, nó sẽ trang trải mọi khoản cho ca mổ của má cô trong bệnh viện. Chưa lúc nào Giang cần tiền nhất như lúc này. Cô muốn nhanh chóng trở lại bệnh viện mang tin vui về với má. Giang ra về, cô bước đi như trong mộng du. Những chú thỏ trắng trong chuồng thi nhau nhảy nhót như cũng biết niềm vui của Giang.
Buổi quay thử đầu tiên khá trọn vẹn. Giang đang ở thời kì đi thư viện lấy tài liệu viết luận văn tốt nghiệp nên công việc đóng phim và chăm sóc mẹ ốm rất thuận lợi. Những người trong đoàn làm phim khen Giang thủ vai rất thật và có chiều sâu nội tâm nhân vật. Lê Mãnh không khen, ông tỏ ra kiệm lời và dè dặt. Lê Mãnh hé cho Giang biết nếu cô diễn xuất tốt và chịu khó nghe lời đạo diễn, ông sẽ dành cho Giang vai chính trong bộ phim sắp tới mà ông là người viết kịch bản và đạo diễn. Lê Mãnh dặn dò Giang buổi chiều đến nhà ông, ông sẽ dành thời gian phân tích cho Giang hiểu về nội tâm nhân vật và các tiểu tiết hành động để sáng hôm sau quay chính thức. Ngồi trên xe về thành phố, Giang thấy mặt đường sáng hẳn lên, cô mừng và tự tin lắm.
Bản sonnê buồn buồn làm cho Lê Mãnh thấy lòng man mác. Ông ngả người trên đi văng thả hồn vào giai điệu dìu dặt, nhè nhẹ. Đã bao nhiêu cô gái đi qua đời ông. Người đến với ông vì tiền, vì danh vọng của sự nổi tiếng, kẻ đến với ông như một sự thể nghiệm, tò mò. Nhiều lúc Lê Mãnh thầm cảm ơn cuộc đời và nghề nghiệp đã làm ông hiểu biết phụ nữ khá tinh tường, sâu sắc. Chỉ cần nhìn vào mắt, ông có thể biết người đàn bà trước mặt ông đang muốn gì. Nếu họ là thỏ non ông vòng tay âu yếm. Nếu họ là sư tử ông biết tránh móng vuốt và nanh nhọn, đến khi ông dùng roi chỉ còn nước nem nép chui vào lồng sắt để ông sập cửa lại.
Lê Mãnh có một nỗi đau đời. Dạo ông mới tốt nghiệp đạo diễn ở nước ngoài về, một cô diễn viên hạng bét khi ấp bộ ngực vào những vết sẹo u cục, gồ ghề, chằng chịt ở người ông, đã hét lên sợ hãi, nhảy khỏi giường bỏ chạy. Ông thấy mình bị kinh tởm. Nhưng buốt nhói nhất là đêm đầu tiên người tình ngủ với ông. Cô ta giật mình, trố mắt kinh ngạc nhìn thân hình nát bét những sẹo vằn, nham nhở của ông. Cô ta ngồi dậy mặc quần áo rồi lẳng lặng bỏ đi, mặc cho trái tim ông đang thổn thức, thân hình ông đang rực lửa. Lê Mãnh nhận ra mình bị bỏ rơi. Từ đó ông quyết không bao giờ để mình bị hạ nhục một lần nữa.
Tiếng gõ cửa quen thuộc và giọng kim eo éo: "Anh ơi!". Lê Mãnh vẫn nằm nghĩ mông lung, không trả lời. Ông cố kéo dài mạch suy tưởng không muốn ngắt quãng. Dường như không thể chờ đợi được nữa, người đứng ngoài đẩy bung cửa bước vào. Một cô gái mặc mini díp trắng hiện ra: "Em chịu hết nổi cứ tưởng anh đang làm gì trên giường". Ông đạo diễn thờ ơ, lạnh nhạt nhìn cái bộ mặt đỏ phừng phừng và cánh mũi phập phồng của cô bé. Không thèm để ý đến thái độ của ông, cô ta sà xuống lòng Lê Mãnh và đặt ngay một dấu son hình trái tim lên má phải của ông. Lê Mãnh từ tốn gỡ đôi tay trần đang vít cổ ông: "Anh Đào! Em sôi sục quá". Anh Đào ngúng ngẩy: "Cũng không quyết liệt bằng trái tim anh. ứ ừ... anh khôn lắm. Người ta đồn anh hay ngồi với đàn bà xem hoa quỳnh nở. Đêm nay anh có mời em ở lại không?". Ông đạo diễn vẫn điềm tĩnh: "Em ghen à? Tôi không mời em cũng vẫn ở lại kia mà". Anh Đào nguýt dài: "ứ! Ghét ghê ". Cô đưa đôi tay trần vò vò cái đầu tóc muối tiêu của Lê Mãnh. Anh Đào đặt luôn vào má trái ông một dấu son hình trái tim nữa.
Lê Mãnh ngồi dậy vuốt vuốt mái tóc ngắn của Anh Đào. Ông cọ cọ cái cằm cộm râu vào má cô bé: "Cẩn thận kẻo bố em bảo tôi quyến rũ em. Ông ấy cho tôi nghỉ việc luôn đó". Cô bé lần tay vào trong áo Lê Mãnh mân mê những vết sẹo trên da thịt ông: "Em đã mười tám , anh không thể quyến rũ em. Em tò mò và em thích anh". Lê Mãnh nhíu mày giả vờ ngạc nhiên: " Em cũng thích tôi?". Đột nhiên ông ghé sát mặt Anh Đào: "Cưng ơi! Chiều nay tôi có công việc...". Anh Đào giận dữ cắt ngang lời ông. Cô bé bảo ông đạo diễn thờ ơ với cô. Rằng cô bỏ giờ phụ đạo Lịch sử điện ảnh đến đây với ông không phải để nghe ông nói những lời như thế. Rồi cô khóc. Cô bảo những thằng trẻ thì vụng dại, hời hợt, những thằng già thì đểu giả, lừa lọc. Chỉ có ông là thiên thần, là tình yêu của cô. Lê Mãnh cười khì: "Cô bé không nói thật! Nhưng mà thôi, tôi sẽ chiều". Ông bế Anh Đào quay một vòng rồi tung cô bé xuống giường đệm mút. Ông nhếch mép cười thích thú nhìn Anh Đào. Gió thổi tốc ngược váy cô bé để lộ rõ mồn một cái xilíp màu đỏ. Lê Mãnh nhảy lên giường vòng hai tay ôm eo rồi vục mặt vào ngực cô bé. Anh Đào quằn quại ôm ghì cái đầu tóc muối tiêu của Lê Mãnh. Chợt ông đạo diễn buông cô bé ra: "Hãy khoan chờ anh đã". Lê Mãnh với tay lên giá bút ở trên bàn rút ra một vật có đầu nhọn, trắng như ngà. Anh Đào hốt hoảng: "Anh làm gì thế?" Lê Mãnh cười nheo nheo đuôi mắt: "Yên tâm đi cô bé. Cái nanh sấu sẽ cứu sống người đàn ông khi cần thiết". Ông lại ghé sát vào tai Anh Đào thì thầm thì thào. Anh Đào chợt hiểu ra, cười ré lên: "Trời ơi! Bao nhiêu người đàn bà đã phải dùng cái nanh sấu này để cứu sống anh ở cái giường này? Anh trả lời đi". Ông đạo diễn cười hì hì, quệt nhẹ cái vật nhọn vào xương cụt của mình: "Đề phòng thôi. Anh còn khoẻ lắm, yên tâm đi. Bây giờ đàn bà các em mấy người còn cài trâm đầu..."
Cộc... cộc... cộc... Tiếng gõ cửa nhẹ và chậm rãi. Lê Mãnh cầm nanh sấu cắm lại vào giá bút, ông nói vọng ra: "Xin chờ cho một lát". Ông đạo diễn lấy khăn lau vết son ở hai má rồi phát nhẹ vào mông cô bé: "Anh Đào về đi. Em vui lòng để khi khác vậy. Ra mở cửa giúp tôi".
Giang sững người khi bắt gặp cái nguýt trề môi của cô gái lạ. Giang bối rối né người tránh lối cho cô bé đi ra. "Giang ngồi xuống đi". Lê Mãnh bước vội xuống cầu thang theo Anh Đào: "Em quên cái xắc". Cô bé vênh vênh cái mặt trông thật đáng ghét và cũng thật đáng yêu: "Nè! Đừng có mới nới cũ là không xong với em đâu. Đêm nay em đến đó". Ông đạo diễn búng nhẹ vào cái mũi hếch của cô bé: "Ôi! Đàn bà bao giờ cũng là đàn bà". Anh Đào ném xoạch cái sắc vào giỏ xe, nổ máy rồ đi. Cô gái quệt phải cái xe đạp mini của Giang làm nó đổ đánh rầm. Mấy chú thỏ trong chuồng lộc xộc lồng lên.
Trong phòng, Giang ngồi nơm nớp. Lê Mãnh rót sâm panh: "Mời Giang". "Thưa chú, à, thưa anh. Em hổng quen". "Giang dùng coca-cola vậy. Thế nào, vừa đóng phim, vừa làm luận văn bận không?". "Bận lu bù hà. Em vừa ở thư viện đến đây ngay". Lê Mãnh mở tủ lạnh, tự tay ông bật một hộp nước ngọt có ga đưa cho Giang. ánh mắt ông loé lên phóng những tia sáng man dại vào mắt Giang. Cô vội vàng cụp mắt. Mớ tóc xoăn loà xoà phủ xuống che kín mắt, thỉnh thoảng Giang lại vuốt lên. Cô nhấm nháp e dè thật chậm, đầu lưỡi hơi cay cay, ngọt ngọt, ga xộc lên mũi thơm thơm.
Lê Mãnh say sưa nói về nhân vật trong phim. Giang đón nghe như nuốt lấy từng lời. Giang đã từng yêu và bối rối trước lời cầu hôn của những bạn trai. Nhưng chưa bao giờ Giang cảm nhận được vị ngọt tình yêu như ônh đạo diễn nói. Chả lẽ khi đóng phim, tình yêu phải như vậy. Cái hôn nóng bỏng thế sao? Tim đập vỡ lồng ngực nữa? Giang nghi ngờ. Cô chỉ thấy những lần đuổi bắt trâu dọc bãi sông Vàm Tàu là tim đập thình thịch muốn chui khỏi ngực thôi. Lê Mãnh bật tiếp một hộp nước ga ướp lạnh nữa: "Uống thế này Giang sẽ thấy thú vị". Lê Mãnh cho thêm một ít sâm panh vào cốc đưa cho Giang. Cô vừa uống vừa nghe như nuốt từng lời ông đạo diễn nói. Ga bốc lên làm gương mặt Giang ửng hồng. Khuôn mặt phương phi có đôi lông mày xếch của đạo diễn Lê Mãnh cũng hơi đỏ: "Nào bây giờ Giang tập thử". Giang đứng dậy mắt hoa lên. Đạo diễn Lê Mãnh nhẹ nhàng nói: "Giang hãy tưởng tượng trước mắt là dòng sông và cô gái đang đứng". Lê Mãnh đổi giọng xưng hô: "Nào bắt đầu, em đang đứng trên triền sông... Kìa, em ngửa mặt lên trời nhớ lại..."
Giang nhắm mắt. Cô nhập vai. Ôi! Nụ hôn... Nụ hôn cháy bỏng thật. Giang thấy mình đang được yêu, lòng cô rạo rực. Giang hoá thân vào nhân vật. "Vừa hồi tưởng vừa đi... đi nữa...". Tiếng đạo diễn giục giã: "Đi nữa... chậm thôi... dừng lại... từ từ cởi cúc áo... lao xuống dòng sông... đừng sợ, đã có đi văng rồi...".
Xoảng! Giang vô tình gạt phải cái chai. Cô chợt bừng tỉnh: "Em hổng thấy kịch bản có đoạn cởi áo". "Tôi biết! Nhưng buộc lòng phải thay đổi chi tiết đó mới phát hành phim được". Tai Giang ù đặc. Cô không còn nghe thấy ông đạo diễn nói gì nữa. Giang lao xuống cầu thang, chạy ra ngoài. Mấy chú thỏ trắng nhốt trong chuồng ở góc vườn ngơ ngác nhìn Giang. Trước khi ngồi lên xe đạp, Giang còn ngoái đầu nhìn lại. Căn nhà ba tầng có giàn hoa giấy leo nhập nhoạng trong bóng xế chiều. Những nhánh xương rồng cảnh túa ra bên lan can tầng hai trông như nhữngnanh hàm cá sấu.
Lê Mãnh điên người cầm tập kịch bản phân vai ném vèo vào góc nhà. Kể từ dạo người tình bỏ đi, đây là lần đầu tiên ông bị một người con gái bỏ chạy khỏi nhà. Giang đã nhìn thấy vết sẹo trong người ông chăng? Không! Chưa hề. Ông bực bội nện giầy cồm cộp trên sàn nhà. Ông lồng lên như một con thú bị thương. Lê Mãnh cầm chai sâm panh dốc vào họng ừng ực. Mùi rượu thơm khiến ông nhớ tới món thịt thỏ rán. Thịt... Thịt... Ông sẽ xơi tái hết mọi con thỏ trong chuồng chứ không cần phải rán! Rồi ông ngồi xuống đi văng cười sằng sặc: "Hừ... Cô bé ơi, cô ngây thơ lắm, nhạy cảm và trong sáng lắm. Cứ chạy đi, thế nào cũng phải quay lại cô bé ạ!". Lê Mãnh lim dim mắt nghĩ đến những người đàn bà đã đi qua đời ông. Có người từng trải, khôn ngoan, hung dữ như con sư tử cái còn phải nép vào bên ông, huống hồ là một con thỏ non.
Dường như hơi mệt mỏi, Lê Mãnh nằm xuống đi văng gối đầu lên tay. Quạt trên trần vẫn quay vù vù. Gió thổi lật lật các trang giấy bay trắng khắp nền nhà. Những trang nháp luận án của Giang và kịch bản phân cảnh bay lẫn lộn. Lê Mãnh uể oải ngồi dậy nhặt nhạnh xếp lại. Ông giật mình khi bắt gặp dòng chữ: "Văn tế cá sấu ở sông Vàm Tàu " trích từ thư tịch cổ trong tập tài liệu Giang bỏ quên. ừ nhỉ! Sông Vàm Tàu. Ông đã quần nhau với cá sấu. Hơi men đã bốc lên, mặt Lê Mãnh đỏ phừng phừng. Ký ức một thời ở trong ông bỗng bừng lên thức dậy.
...Ngày ấy, đã hơn hai mươi năm. Tổ đặc công nước của Mãnh và Hai Dũng được giao nhiêm vụ đánh tàu Mađốc 3 ở cửa sông Vàm Tàu. Mãnh và Hai Dũng hẹn nhau ráp mìn vào vỏ tàu xong sẽ bơi về tập kết ở Cồn Lu chờ người đằng mình đón đi. Mãnh còn nhớ Cồn Lu là một doi cát nổi lên ở giữa sông Vàm Tàu. Đoạn sông rất nhiều cá sấu nên rất ít khi bị địch phục kích. Mãnh và Hai Dũng bơi qua khu vực Cồn Lu phải bơi đứng. Cá sấu quện xung quanh. Có con luồn ở dưới nâng cả chân lên. Có con nổi lên mặt nước, cứ lừ lừ bơi theo. Mãnh sợ lắm, người bủn rủn. Hai Dũng vừa phải bơi vừa đẩy Mãnh bơi theo.
Từ xa tàu Mađốc 3 nổi lù lù như một con cá sấu đen sì. Pha đèn cực mạnh quét loang loáng trên mặt nước. Thỉnh thoảng bọn lính trên tàu lại đem lựu đạn rút chốt ném tới tấp xung quanh mạn tàu. Có thằng lại động cỡn chĩa súng R15 xuống sát vỏ tàu kéo hết băng. Hai Dũng bảo Mãnh: "Mỗi đứa một mạn tàu chờ bọn nó liệng hết thùng lựu đạn thì lặn xáp dô kẻo bọn người nhái xuống đó".
Con tàu không bị đánh đắm. Nó chỉ bị thương vì lượng thuốc nổ không đủ. Mãnh không dám áp sát vỏ tàu. Khi tiếng nổ phát ra cũng là lúc Mãnh quay người bơi ngược sông Vàm Tàu. Đang bơi, Mãnh thấy mình bị kéo ghì xuống, mặt áp sát lòng sông. Có một sức mạnh vô hình như ngàm bẫy sập xuống ngang bụng Mãnh khoá luôn cả hai tay dọc theo hông không thể vùng vẫy được. Cá sấu! Mải nghĩ về chuyện đánh tàu. Mãnh quên mất phải bơi đứng. Mãnh nghĩ bụng: "Đời coi như hết". Mãnh cố sức đập hai chân và rút tay ra khỏi hàm sấu nhưng không thể cựa quậy được. Mãnh cố cử động, bàn tay chạm phải mắt con vật. Trong đầu Mãnh chợt loé lên một ý nghĩ trong lúc khốn cùng. Mãnh dùng ngón tay bấm hết sức vào mắt nó. Con cá sấu đau quẫy đuôi đập nước ầm ầm, đầu nó lắc lắc. Mãnh ấn tiếp thật sâu, ngoáy ngoáy ngón tay trong hốc mắt nó. Con cá sấu đau quá há miệng. Mãnh nhanh tay rút dao găm và thoát hai tay khỏi hàm sấu. Con sấu lại sập hàm giữ ngang bụng Mãnh. Những nhát dao đâm liên tục vào mắt, vào đầu và bụng làm con sấu đau. Nó há hoác miệng ra. Mãnh thoát khỏi hàm sấu, đạp chân vào đầu nó bơi lao đi. Con sấu quyết không bỏ mồi, đuổi theo. Nó há hoác miệng một lần nữa đớp. Mãnh kịp rút quả mỏ vịt đeo bên hông ném vào miệng con sấu. Một tiếng nổ bụp trong nước. Con sấu lật ngửa, nổi lên mặt sông. Mãnh bơi thêm một đoạn, lết đến Cồn Lu rồi ngất xỉu.
Ba ngày sau, Mãnh tỉnh dậy thấy mình đang nằm trong hầm. Người Mãnh đầy vết nhai của nanh hàm cá sấu. Mãnh thấy vợ Hai Dũng ngồi bên khóc. Mãnh hiểu ra, cấp trên giao nhiệm vụ cho cô Hai đưa thuyền ra Cồn Lu đón chồng và Mãnh. Mãnh bàng hoàng nhớ lại cuộc tử chiến với cá sấu...
Gần hai chục ngày sau, vết thương của Mãnh đã ổn định. Trên người Mãnh đầy sẹo. Cô Hai đưa lại số mìn Mãnh đeo về và lặng lẽ không nói. Đêm Mãnh mò ra sông Vàm Tàu, vứt mìn xuống nước. Con cá sấu chết, sóng đánh dạt vào bãi sông đã vữa, mùi thối bốc lên khó chịu. Mãnh lấy dao găm cạy hàm sấu lấy hai cái nanh dài.
Ngày chia tay với cô Hai, Mãnh quàng vào cổ vợ bạn sợi dây đeo chiếc nanh cá sấu có khắc chữ M. Mãnh bảo nhất định sẽ trở lại dòng sông Vàm Tàu. Cô Hai thở hổn hển. Cổ ngẳng ra, nổi đầy gân xanh, ức thí thóp thở. Cô Hai khóc, nước mắt dàn dụa nhìn theo bóng người đi. Mãnh vừa đi vừa ngoái đầu lại nhìn. Cái nanh sấu lấp loá dưới cổ người thiếu phụ...
Mấy ngày liền Giang không trở lại trường quay. Cô cũng nghỉ luôn lớp học diễn viên điện ảnh của Nhà văn hoá thành phố mở ban đêm. Ngoài những lúc chăm má, Giang ngồi lỳ trong thư viện với ý nghĩ quyết hoàn thành luận văn tốt nghiệp đạt loại ưu để xin việc được ngay. Giang biết chỉ có thế mới giúp được má con cô trong những ngày khốn khó này. Giang nhớ về bãi sông Vàm Tàu nơi má đi qua chiến tranh hết thời tuổi trẻ. ở đó, má con Giang sống nghèo khó, tần tảo suốt tuổi thơ Giang cho đến bây giờ Giang và má tuy sống rất nghèo mà hạnh phúc, dù đó là thứ hạnh phúc đơn sơ, bình dị. Bây giờ, má con Giang đang cần tiền, cần rất nhiều tiền cho má chữa bệnh. Chưa bao giờ Giang thương má như lúc này. Mấy năm nay má yếu nhiều vì vết thương cũ lại tái phát... Mải nghĩ lung tung, cả buổi chiều thứ bảy, Giang chỉ chép được vẻn vẹn mấy chục dòng: "Văn tế cá sấu" ở thư tịch cổ mà lần trước đã tra cứu xong, chẳng biết bỏ ở đâu. Giang mệt mỏi, cầm tờ giấy mới chép kẹp vào tập luận văn: "Gia đình và cộng đồng trong văn học cổ" đang viết dở dang. Cô dắt xe ra cổng trường.
Trợ lý đạo diễn Trần Lâm chờ Giang từ lúc nào chẳng rõ: "Xin lỗi! Đạo diễn Lê Mãnh cho mời cô đến gặp". Lâm ngồi trên xe máy, một chân thả xuống đất. Đôi ria mép của anh ta rậm đen không tương xứng với cặp lông mày thưa. Giang miễn cưỡng: "Nhờ anh nói giùm, tôi sẽ gặp ổng ở trường quay". Giang đạp xe đi. Trần Lâm nổ máy chạy vè vè bên cạnh: "Cô bỏ quên kịch bản ở nhà đạo diễn làm sao thuộc vai được. Anh Lê Mãnh yêu cầu cô đến cầm về đọc lại. Thời gian quay rất gấp. Đề nghị cô cộng tác nghiêm túc để hoàn thành kế hoạch của đoàn".
Trần Lâm xổ ra một tràng dài rồi rú ga xe máy vọt lên trước. Giang vừa đạp xe vừa nghĩ mông lung. Công việc đóng phim, ánh mắt ông đạo diễn, kỳ thi tốt nghiệp và căn bệnh hiểm nghèo của má... Bao nhiêu việc dồn dập đến, dường như quá sức chịu đựng của Giang. Nhưng dù sao lúc này má vẫn là trước hết, là tất cả. Giang đạp vội xe đến bệnh viện.
"Trời ơi! Má mầy ngóng hoài. Bả mệt dữ. Tao ép hổng chịu ăn cái chi hà". "Cám ơn dì út đã giúp má con"."ơn với huệ gì đâu. Tao thấy má mầy bệnh nặng tao thương hà. Thôi chạy vào nhanh với má mầy đi". Giang không còn hồn vía nào nữa. Cô chỉ sợ má đi. Giang chạy gấp lên tầng hai. Vào phòng bệnh, Giang thấy mấy người thăm bệnh nhân đứng xung quanh giường má nằm. Giang rẽ người len vào bên má. Bà Hai cầm lấy tay con từng hơi mệt nhọc: "Con ơi! Má biết bệnh tình má nặng lắm. Nếu chữa được phải bán cả nhà ở quê cũng không đủ tiền. Con lại còn ăn học... học...". "Bác sĩ ơi! Má tôi... má tôi nè". Giang hoảng hốt gọi. Một bóng áo trắng ló đầu vào: "Cái chi mà làm dữ vậy". Giang rân rấn nước mắt chỉ vào má: "Má tôi... má tôi nói chạng lạng rồi". Ông bác sĩ bấm còi cấp cứu. Mấy cô y tá chạy đến. Họ chạy máy thở oxi và tiêm thuốc nâng huyết áp cho má Giang. Một lúc sau, bà mới tỉnh táo lại. Trước khi ra khỏi phòng, ông bác sĩ bảo Giang: "Cô yên tâm. Bây giờ thì hổng sao nữa. Má cô càng mổ sớm ngày nào càng tốt ngày đó. Nhớ chuẩn bị tiền mua máu và thuốc tiêm, thuốc uống cả đợt cho bả". Giang đứng lặng, nước mắt cứ trào ra. "Khổ thân má con mầy. Tiền đây, bà con cùng là người bệnh quyên góp, gọi là của ít lòng nhiều. Cầm lấy đi con". "Con hổng dám cầm đâu. Dì út và mọi người tốt với má con con lắm". "Ơ, cái con nhỏ này. Chúng tao thương má con mầy thiệt lòng. Thôi đi ăn uống chút gì đi hổng đói. Tao coi má mầy cho". Giang khóc nức nở. Dì út ấn nắm tiền lẻ toàn loại một, hai ngàn đồng vào tay Giang.
Tối chạng vạng. Phố phường đã lên đèn. Giang đạp xe như bay đến nhà ông đạo diễn. Giang bước vào sân. Cô giật mình. Dưới ánh đèn nêông một con thỏ trắng bị trói chặt quẳng ở góc hè. Khổ thân nó sắp bị làm lông và lên thớt. Giang ngồi thụp xuống vuốt ve bộ lông của nó rồi đứng dậy. Giang sững người bắt gặp một thiếu phụ từ nhà đạo diễn Lê Mãnh đi ra. Chị vừa đi vừa lau nước mắt. Chợt chị dừng lại nhìn Giang rồi nở một nụ cười héo hắt. Giang tần ngần đứng ngoài hiên. Cô nghĩ: bao nhiêu đời con gái đã đi qua căn nhà này? Những nhánh xương rồng cảnh tua tủa gai nhọn hoắt làm Giang liên tưởng đến nanh hàm cá sấu.
"Mời Giang vào". "Dạ". Giang đánh liều bước vào nhà Lê Mãnh một lần nữa. Lần này ông mặc bộ pizama màu tối. Nét mắt ông không vui: "Cô đã phá kế hoạch của đoàn, tức là phá hợp đồng. Theo luật cô phải bồi thường toàn bộ số tiền tạm ứng và chịu trách nhiệm về thiệt hại của đoàn vì đã ngừng quay". Mắt Giang hoa lên. Cô đã mua thuốc cho má hết số tiền thù lao tạm ứng. Còn những khoản chi phí khác cho má sắp đến ngày lên bàn mổ? Giang nấc lên trong nước mắt: "Ông... ông..." Cô không nói hết điều cô muốn nói. Cổ Giang nghẹn lại. Lê Mãnh lim dim mắt: "Xử xự thế nào là tuỳ cô. Tôi không hoàn toàn ép buộc. Nhưng tôi phải có trách nhiệm với bộ phim vốn hàng trăm cây vàng mà cô làm dở dang". Miệng ông đạo diễn bình thản thả từng vòng khói thuốc tròn tròn bay ra cửa sổ. Ông kéo cái mặt giở khóc giỏ mếu của Giang lên và nhìn mắt cô: "Tôi nghĩ. Em nên vâng lời tôi". Lê Mãnh lại vỗ về: "Em có mất mát gì đâu".
Hình ảnh người mẹ tàn sức trong bệnh viện lại hiện lên trong đầu Giang. Không còn cách nào khác, Giang thấy mình chơi vơi trên lòng sông đầy cá sấu há miệng, hàm nhọn hoắt. Giang nói trong nước mắt: "Vâng! Thưa ông! Nhưng ông hãy cho em đi tắm. Nghe ông nhắn gọi, nhưng em phải vào bệnh viện bây giờ mới tới được". Ông đạo diễn nở nụ cười mãn nguyện: "Xin Giang cứ tự nhiên. Mời Giang vào, tôi sẽ hướng dẫn các thiết bị phòng tắm. Cầm bộ đồ này thay, tôi mua ở Pháp có nhã ý tặng Giang từ hôm mới gặp".
Mùi nước hoa tulíp thơm dịu bay khắp nhà, đạo diễn Lê Mãnh đi lại, đi lại thích thú nghe tiếng xối nước trong phòng tắm. Ông dập chân, khe khẽ hát theo điệu nhạc sonne buồn dìu dịu. Ông đến bên bàn rút chiếc nanh sấu ở giá bút rồi ngồi xuống đivăng ngả đầu dựa vào thành ghế nét mặt ông rạng rỡ mãn nguyện.
Một lúc sau, Giang thẹn thùng bước ra. Cô nhìn thấy ông đạo diễn mân mê cái nanh sấu trên tay, đôi lông mày nhíu lại. Chợt ông ngẩng lên: "Ôi! Giang đẹp lắm. Như bà hoàng Ai Cập". Ông nheo nheo mắt cầm nanh sấu quệt nhẹ vào má mình. Ông thong thả từng tiếng: "Thôi cô về đi, tối rồi". Giang ngạc nhiên: "Em hổng có hiểu, thưa ông!". Ông đạo diễn cắm cái nanh sấu vào giá bút: "Tôi đã bảo cô về đi. Tôi đọc trong mắt cô một sự dâng hiến bắt buộc. Tôi muốn một sự tự nguyện từ nơi cô. Cô nhớ sáng mai làm việc ở trường quay". Giang thảng thốt: "Trời ơi! Tôi chưa bao giờ gặp một người như ông".
Giang lao sầm sầm xuống cầu thang. Cô đẩy cánh cổng rầm rầm làm mấy chú thỏ trong chuồng nhớn nhác, hoảng loạn. Giang ngồi lên xe, đạp vèo vèo không ngoái đầu nhìn lại, người và xe loang loáng trước mặt cô.
Trời sắp sáng, Giang giật mình tỉnh giấc. Cô nhớ lại tối hôm qua má nhìn Giang ngỡ ngàng, lạ lẫm. Lúc đó Giang chợt hiểu ra, người cô đầy mồ hôi nhễ nhãi trong bộ đồ xa lạ. Giang đi sang phòng vệ sinh rửa mặt và thay bộ đồ đang mặc. Đến khi Giang trở lại ngồi bên giường bệnh, gục đầu vào lòng má, cô mới thấy lòng mình ấm áp lại. Chốc chốc nước mắt Giang lại trào ra, mùi nước hoa tulip vẫn còn phảng phất. Má lo lắng hỏi: "Mấy ngày nay má linh cảm thấy có điều không hay. Có làm sao không? Nói thiệt đi con". Giang lắc đầu khe khẽ. Má thở phào. Từ lúc ấy Giang cứ thao thức, má cũng không ngủ được, mỗi người theo đuổi những suy nghĩ riêng tư. Rồi Giang thiếp đi lúc nào không biết.
"Giang ơi! Ngồi lại đây con má biểu". Giọng má yếu và nhỏ. Giang dụi mắt: "Má hổng ngủ suốt đêm phải không?". Má nắm lấy tay Giang: "ờ! Má nghĩ kĩ lắm rồi. Con đã lớn. Má không thể giấu con được nữa. Đây là cái vòng ngọc má dành dụm cả đời người, chờ khi con lấy chồng má cho...". "Con hiểu má ơi! Người còn là của còn". "ờ! Đến nước này thì má không muốn vì tình mẫu tử mà con phải đánh đổi cả đời người con gái". "Má! Má bình tâm kẻo bệnh phát nặng thêm nữa". Giang khóc. Má cũng khóc: "Còn đây là cái nanh sấu, kỉ vật thiêng liêng có khắc chữ M...". Má nhẩn nha kể chuyện ngày xưa... Giang lại nhớ cái nanh sấu nhọn hoắt ông đạo diễn mân mê trong tay.
Sáng. Giang đeo cái nanh sấu má trao vào cổ rồi cầm chiếc vòng ngọc và dắt xe đạp mini, vật có giá cuối cùng đến hiệu cầm đồ. Lấy tiền xong Giang quyết định đến nhà ông đạo diễn, nơi có một cái nanh sấu nữa.
Giang bước lên vỉa hè. Trần Lâm xịch xe đỗ luôn bên cạnh. Hắn mừng ra mặt mời Giang vào nhà đạo diễn để đón ông cùng ra trường quay luôn. Hai người mới vào đến sân đã thấy Anh Đào sồng sộc chạy ra. Cô bé hoảng hốt, mặt tái mét không nói ra thành lời. Giang nhìn thấy những giọt máu đỏ thấm vào mini díp màu trắng của Anh Đào. Cô bé miệng ú ớ chỉ tay lên gác ra hiệu gì không rõ. Trần Lâm vội chạy lên cầu thang, ập vào phòng ngủ của Lê Mãnh. Giang cũng vào theo. Lê Mãnh nằm nghiêng, người cứng đờ. Xương cụt ông bị chọc choe choét máu. Cái nanh sấu trắng vấy máu tươi rơi xuống nền nhà. Giang chột dạ sờ lên cổ. Cô nhìn ông đạo diễn nhắm nghiền mắt, tay ông còn nắm chặt cái quần xilíp mỏng màu đỏ.
LỬA CHÁY TRONG RỪNG HOANG
Bản Cón Nhợi có một cái nhà xim. Tối tối, trai gái mới mười lăm, mười sáu tuổi đã bị bố mẹ đuổi đến đó để nói chuyện tình và ngủ. Nhưng chập tối, trai gái bản Cón Nhợi chưa đến nhà xim ngay mà cầm đuốc gọi nhau đi xim. Đuốc đốt bằng thân lồ ô lửa cháy đỏ rừng. Đi xim từa tựa như dưới xuôi đi chơi, đi tán nhau. Đi xim có từ thuở nào không ai biết, ngay già làng Sanh cũng bảo, lớn lên đã thấy đi xim có lâu rồi. Các bà mẹ dấm dúi ấn vào tay con gái một nắm lá rừng không có tên. Vậy là cái bụng nó yên rồi, con gái bản Cón Nhợi sẽ chẳng bao giờ làm mất mặt bố mẹ phải để già làng dùng luật tục xử. Cái lá không tên ấy người dưới xuôi chẳng biết, hỏi người bên kia biên giới lá gì cũng mù tịt. Bà ngoại truyền cho mẹ, mẹ truyền cho con gái... thì đến đàn ông trong bản cũng chịu chứ nói gì người bản khác. Kèn lá thổi lí lơi, tiếng hát bay chấp chới trời đêm. Con trai, con gái đi xim đến lúc thấy hơi thở là của nhau, vị ngon ngọt đầu lưỡi là của nhau, trời lộn xuống đất, đất ngồi lên trời thì tách đàn, dụi tắt đuốc, rủ nhau vào lùm cây. Tay chân quấn quýt xoắn vào nhau, mùi thịt da quện vào hơi thở nồng nàn át cả mùi cỏ ngai ngái toả ra tức tưởi vì bị dẫm đạp, chà xát. Khi trên đầu, ông trăng lặn, ông sao mờ; khi dưới đất, sương đêm tưới đẫm cỏ cây, tóc tai ướt nhèm mới buông nhau ra, đi về nhà xim ngủ tập trung. Sáng sớm, ông mặt trời chưa mọc, chim chảnh choẹ cãi nhau bên hồi nhà đã thức dậy đi về nhà mình. Con trai mặt mày hớn hở vác rìu, vác nỏ vào rừng. Con gái ửng hồng ở hai má, mồ hôi lấm tấm trên sống mũi, thỉnh thoảng nhoẻn miệng cười thầm; xay ngô, giã gạo, đi nương để rồi đến tối lại í ới gọi bạn tình.
Sáng thích Plăng, Pui cũng thích Plăng, nhưng Plăng chỉ cầm nắm lá không tên theo Sáng vào rừng thôi. Sáng đi xim nửa năm thì cán bộ về bản, cả bản chỉ mình Sáng được chọn đi học trường nội trú ở tỉnh. Lần đầu, Sáng xuống núi. Đi một tháng không về, đi ba tháng cũng không về, một năm sau Sáng về thì Plăng đã là vợ của Pui rồi. Sáng ghen, Sáng nuốt cái tức giận vào lòng. Thì ra cái lá rừng không tên mất thiêng. Có lẽ bà mẹ lẫn cẫn hay cố tình đưa nhầm lá nên cái bụng Plăng cứ mỗi ngày một to thêm. Già làng xử phạt rồi cho Pui và Plăng cưới nhau. Có phải: Pui sang bản Tý, bản Miệt, bản Roong... Pui vượt núi sang cả bên kia biên giới. Pui làm nghề thiến lợn, thiến gà, thiến trâu bò rong. Pui có nhiều bạc trắng mà Plăng yêu Pui không? Đã thế Sáng bỏ học ở tỉnh về nhà lấy Siu con gái ông Roi trưởng công an xã. Siu thích Sáng lắm! Chỉ tội chưa bao giờ Sáng đi xim với Siu. Lấy Siu cho đỡ ngứa cái mắt khi nhìn Plăng giặt quần áo cho Pui ở suối Lồ lô, cho đỡ nghẹn cái họng khi nghe Plăng nói lời âu yếm với Pui. Nhưng phận Sáng hẩm quá. Lấy Siu mới đủ tháng, chưa kịp có con thì Siu đã bị con ma bắt. Sáng như người mất hồn. Làm ma cho con gái xong, ông Roi bảo Sáng: “Khổ thân mày! Cái số mồ côi vợ tao biết. Chờ con Sa đến tuổi đi xim, tao gả cho, thay con Siu chị nó. Không phải bắt chồng, ở rể đâu.”. Sáng buồn như con chim rơi mất tổ, như con nai đực lớn đến mùa cỏ non mà chưa có đôi.
Chuyện ấy qua lâu rồi.
Hôm nay, Sáng đến nhà Pui đâu phải chuyện ấy mà là chuyện nhà nước. Pui nằm cuộn như con sâu bên bộ bàn đèn đã ngả màu nâu bóng. Pui mở tráp tra một bi nữa, mảy may như không có công an Sáng và trưởng bản Mun, như hút thuốc phiện là việc riêng của Pui vậy:
-A. Sáng. Mày ám tao hả? Không sợ dân bản bảo mày ghen ăn tức ở à.
-Mày hút như con trăn nuốt khói, nuốt hết cơm gạo của vợ con rồi.
-Sáng. Chuyện riêng của nhà tao. Plăng có ca thán gì đâu. Mày biết tao đã ghen là như con lợn lòi phá rừng đấy.
-Chuyện riêng nhưng cũng là chuyện của làng của nước. Pui à.
-Nhà nước có bỏ tù người hút thuốc phiện đâu. Già làng cũng chưa bảo tao bỏ bàn đèn - Pui vỗ vỗ vào cái tù và sừng trâu đen bóng đeo toòng teng ở ngực trưởng bản Mun - Đeo tù và không thổi, dân bản có ghét anh Mun đâu. Mày cứ như con nghé vừa lớn ngứa sừng. Mày đừng đâm thóc chọc gậy. Tao cũng không muốn mày gặp Plăng nữa. Sáng à.
Pui rung đùi, Pui tra tiếp một bi nữa. Cái lý của Pui sai quá mà sao Sáng không bắt bẻ được. Sáng cấu vào hông trưởng bản Mun như ngầm bảo: Cái thằng Pui hỏng quá, đi khỏi nhà nó cho khuất mắt, để nỗi giận khỏi bùng lên. Nhưng mái nhà sàn của Pui dột lỗ chỗ rơi cả nắng xuống sàn rồi, đêm chắc sẽ nhìn thấy cả ông trăng sáng, ông sao mờ nữa. Cái bếp giữa nhà lạnh tanh nguội ngắt, mấy cái nồi đất nằm ngồi lỏng chỏng, lười nhác quá. Thóc gạo, khoai ngô, đỗ tương có còn đâu mà nổi lửa, chúng theo nhau vào quán mụ Dơi đổi lấy bạc trắng, đổi lấy tiền mua thuốc phiện, thuốc phiện thành khói trong bụng Pui rồi. Còn Plăng nữa kìa! Đứa bé còn đỏ hỏn ngặt nghẽo địu trên lưng, cái bụng Plăng đã to lùm lùm. Plăng cúi gằm mặt không ngước lên nhìn Sáng. Khuôn ngực căng mẩy dập dềnh và đôi má ngày trước lúc nào cũng ửng hồng có lúm đồng tiền như xoáy nước cuốn bao nhiêu trai bản vào đó đâu rồi. Plăng tong teo như cây lau mùa đông. Thương Plăng quá! Vợ con mày sẽ còn khổ, Pui ơi.
Ra khỏi cổng nhà Pui, trưởng bản Mun rút tẩu thuốc rê to như con ốc nhồi ra khỏi miệng, nóp bụng thở dài.:
-Ây dà. Trời sinh voi trời sinh cỏ. Đến quán mụ Dơi làm tợp rượu thôi, Sáng à.
-Tôi đang muốn dẹp cái quán đó. Anh có còn là trưởng bản không? Anh Mun.
-Tao có bỏ tù và đâu. Tao vẫn đeo đây này.
-Cái mụ ấy, tôi không để yên đâu. Bảo không được là tôi đập mặt cái ti vi nhà nó, ném ắc quy xuống suối cho mụ Dơi biết mặt tôi.
-Ây dà! Mặc nó, trời sinh voi thì trời sinh cỏ, Sáng à. Ô kìa! - Trưởng bản Mun nheo nheo mắt nhìn sang vạt nương có vệt nắng kéo dài. Một người đàn ông đội mũ nồi đang ngồi ngất ngưởng trên lưng trâu - Tôi có nhìn con gà ra con cuốc không? Có phải trưởng công an xã Roi đi họp huyện về?
-Không nhầm đâu Mun ơi. Tôi, Roi đây.
-Chắc là mới ở quán mụ Dơi ra. Mặt mũi đỏ tía như gà chọi kìa. Ông Roi. Bản làng có việc gì xảy ra không để tôi còn rúc tù và nào?
-Cũng thường. Như ngày hôm qua, Mun à.
-Có vấn đề đấy. Bố vợ không biết đâu.
-A. Sáng. Mày cũng ở đây. Sao mày không chào bố vợ. Con Sa đến tuổi đi xim rồi mày biết chưa.
-Tôi đang bực cái mình. Có vấn đề đấy.
-A. Sáng. Mày đừng cậy được học ở công an huyện về bản nhìn con mèo ra con hổ. Ây dà. Mày như con chim mới ra ràng. Bao giờ mới có sỏi trong đầu hở Sáng. Chả lẽ tao ươm hạt chưa nảy mầm đã thối à.
-Cái bản vỡ như động rừng rồi, bố vợ không biết đâu.
Bản Cón Nhợi vỡ rồi. Vỡ từ hôm mụ Dơi ở phố huyện dọn về. Sao lại nảy nòi ra cái quán hàng tạp, bia rượu - Ka ra ô kê ấy nhỉ. ở đây có phải phố huyện đâu. Chỉ tại mụ Dơi thôi. Già làng bảo: “Mụ Dơi hơn Sáng độ năm, sáu tuổi có đôi tay thêu thùa may vá giỏi lắm. Dạo còn ở bản gặp anh cán bộ thương nghiệp trẻ lên mua đỗ tương cũng cầm kèn ác mô ni ca đi xim. Mê quá, Dơi bỏ người tình thổi kèn lá theo anh thổi kèn tây. Xuống phố ăn nằm với nhau một thời gian thì vợ anh ta ở dưới xuôi lên đánh ghen. Hết tình hết nghĩa, mụ quay về bản đem theo cả cái thói buôn gian bán lậu ở phố huyện về.”. Mụ Dơi về, cái xấu cũng về theo. Con trai con gái bỏ đi xim vào quán của mụ Dơi uống rượu, bia, hát hò. Hết tiền thì chúng nó xúc cả lúa, ngô, đỗ tương mang theo. Nhạc nhẽo ở quán mụ Dơi cứ cà giựt cà giựt chối tai lắm. Cắm mặt vào màn hình nhìn mấy đứa con gái ăn mặc như cởi truồng uốn éo, rồi hát theo, ngượng quá.
Sáng về nhà mình - nhà già làng. Lũ trẻ con đứa cởi trần, rốn lồi như quả nhót, đứa mặc quần thủng đít, thò lò mũi đang vây quanh già làng dưới gốc cây cổ thụ. Già làng vo thuốc rê nhỏ như quả gắm nhét vào miệng con rắn, con rắn say khật khừ nghểnh cổ vuơn cao, vươn cao như dây thừng, thao láo mắt nhìn trong tiếng cười, tiếng kêu xô đẩy thích thú của bọn trẻ.
Già làng kéo Sáng vào gầm cầu thang đưa thuốc rê cho Sáng. Sáng cầm tẩu thuốc tra cán vào miệng, rít; phà khói xong Sáng nằm thẳng đưỡn:
-Thuốc của già làng cho con rắn ngậm con rắn say, người ăn thịt rắn lại say đứ đự ba ngày ba đêm cho mà xem. Làng bản có luật tục, nhà nước có phép nước, sao già làng không đưa mấy thằng hút thuốc phiện ra xử cho bản làng yên.
-Mày có lớn mà chưa có khôn cháu ạ. Làng ta không có luật tục xử người hút thuốc phiện. Việc ấy là của nhà nước, của bố vợ mày.
Sáng thở dài nóp cả bụng:
-Lành như con trăn đất, bố vợ tôi biết gì đâu.
-Trăn đất mà nuốt được cả lợn độc đấy. Mày đừng tưởng lão Roi khù khờ.
-Tôi thấy bây giờ trời đất cứ lộn tùng phèo.
-Tao còn thấy trước cả mày. Mày có nghe trẻ chăn trâu, chăn ngựa hát nghêu ngao:
Thuở khai thiên lập địa
Thời đo đất đo nước
Nước đã lành như đất
Đất đã hiền như người
Thời người phố về làng
Còn đâu thuở hồng hoang?...
Bản Cón Nhợi không còn thuở hồng hoang. Bản Cón Nhợi đang vỡ rồi. Mụ Dơi, thằng Pui hay còn ai nữa làm động rừng động núi. Mụ Dơi thì đã rõ, mụ bảo Pui: “Mày đừng đi thiến lợn, thiến bò rong liên miên hàng tháng nữa. Nay thằng Sáng nhiều tiền hơn mày rồi. Con Plăng vẫn nhớ ngày đi xim với nó đấy. ở nhà mà coi vợ. Pui à.”. Pui bảo: “Tao mà bắt được là tao chém.”. “Mày đi thồ hàng cho tao, tao trả tiền. Có tiền là có thuốc phiện hút lại giữ được vợ.”. “Còn những đêm tao thồ hàng vắng nhà?”. “Tao bẻ lá gài ở cổng, tao khoá cửa ngoài, tao coi cho. Mày tin đi”. Thế là Pui đi thồ hàng lên xuống núi, thồ cả hàng từ bên kia biên giới về cho mụ Dơi. Một thời gian lại thấy Pui lấy hàng ở quán mụ Dơi đi đổi bạc trắng, đi bán rong ở các bản. Cũng có lần ông Roi đi họp huyện tiện đường mụ Dơi gửi thồ giúp vài thứ lặt vặt, hoặc cần lấy hàng mụ đi cùng ông cho vui đường dài. Từ bản về huyện đi hết ngày đẫy nên mụ Dơi thường nắm cơm ăn dọc đường. Nắm cơm tẻ dành cho bữa trưa mời ông Roi ăn cùng, nắm cơm nếp nương mụ góp vào ăn bữa tối nhà chủ hàng Vạn ở chợ huyện. Ăn xong, bàn chuyện mờ ám chỉ có trời mới biết. Nhưng cái kim bọc trong vải mãi cũng lòi ra, mụ Dơi cứ lộ dần cái mặt ác như con cú.
Ngày trước, bản Cón Nhợi chưa nhìn thấy đèn pin, rượu bia, vải xoa, mì chính, ka ra ô kê chạy ắc quy ở quán mụ Dơi..., chưa bị cái gọi là cơn lốc hàng hoá ở bên kia biên giới và dưới xuôi tràn tới làm nghiêng ngả đất trời. Ngày trước, rừng xanh núi đỏ nhuốm màu thuở hồng hoang. Con trăn, con gấu, con diều hâu còn dại khờ, hiền lành như thời khai thiên lập địa. Các nhà sàn nằm e ấp dưới những cây cổ thụ, gió thổi mạnh là tung cả tổ và chim non xuống mái. Con gái lội suối, nước ngập tới đâu vén sân (váy) tới đó, nước ngập đến cổ là túm luôn váy đội lên đầu; lúc lên bờ, da hở đến đâu thả váy che đến đó. Đàn bà địu con đi rẫy để ngực trần đón mặt trời cho da rám nắng. Con gái tắm suối í ới rủ nhau túm tụm một chỗ, vờn nước cho sóng mơn man nơi ngực trần lồ lộ cặp vú tròn, căng mẩy như trái dưa lê và đôi nhũ hoa đỏ phớt màu hoa móng rồng.
Ngày xưa, người bản Cón Nhợi và người bên kia biên giới vẫn sang đất nhau làm nương, phát rẫy, đi rừng; bắt chồng, ở rể. Bản Cón Nhợi không biết thằng ăn trộm con ăn cắp, không biết đứa cờ bạc mồm ngang mũi dọc thế nào. Cây thuốc phiện triệt bỏ lâu rồi đến nỗi trẻ con chẳng biết thân nó cứng hay mềm, cao hay thấp, hoa nó trắng hay đỏ. Trưởng công an Roi chưa một lần phải bắt kẻ trộm cắp, hút sách, đánh lộn, chưa một lần phải xử chuyện cãi nhau. Việc gì phạm luật tục đã có già làng Sanh phân xử. Lâu không dùng đến nghiệp vụ (mà nghiệp vụ cũng như con chữ trong đầu có được là bao) nhiều lúc ông Roi quên mình là trưởng công an, quên cả việc cưỡi trâu xuống huyện báo cáo.
Bản Cón Nhợi yên ả, thanh bình lắm. Cây bạc hà vẫn xanh rợp mọc trên nương trên rẫy, mọc lấp lối đi, mọc cả ở hồi nhà. Trâu dưới gầm sàn động đực dứt dây thừng khỏi mũi rượt bạn tình giẫm nát lá bạc hà, tinh dầu bốc lên thơm điếc mũi. Hoa dủ dẻ nở trắng bờ suối, nở miên man triền đồi, hoa rắc đầy mặt nước, hoa gọi ong rừng bay u u đi hút mật. Bản Cón Nhợi chôn người chết một lần ở khu rừng ma, đã chôn là không bốc mả, đã chôn là làm nhà mồ che sương che nắng cho người chết. Mùa đông, bản làng chìm ngập trong sương trắng bồng bềnh trôi. Mùa hè, mây trắng nhởn nhơ bay trên thảm thực vật nhiều tầng của rừng sâu xanh, mây sà xuống vấn vít lập lềnh sườn núi đỏ. Khỉ cái buộc dây rừng vào bụng, nháo nhác từng bầy xuống nương bẻ trộm ngô dắt quanh hông. Khỉ đực thấy đàn bà, con gái lấp ló ở chòi coi nương là dạng háng ra gãi sồn sột rồi nhe răng trắng ởn cười khành khạch. Trăn đất chậm chạp bò đến chân cầu thang sưởi nắng, cuộn tròn bện thành khoanh như khoanh chão. Gà rừng xông vào sân mổ tranh ngô với gà nhà. Chó không biết coi nhà vì quanh năm không có khách lạ. Chó chỉ cắn một lần duy nhất khi anh bộ đội biên phòng đến lần đầu tiên mở lớp xoá mù. Anh vỗ vỗ vào đầu con chó nghiệp vụ dắt theo: “Giôn, mày bảo với chúng nó đi. Tao về đây mở lớp đấy. Định bắt trẻ con bản Cón Nhợi tối tăm mãi như chúng nó hay sao mà cứ cắn ông ổng thế”. Giôn sủa gâu gâu một hồi. Mấy con chó nhà hiểu ra, đuôi vểnh cao lên ngoáy tít, chạy nhông nhông lại thè lưỡi liếm liếm vào tay anh biên phòng, ý chừng như muốn bảo: “Giôn có phên dậu của Giôn. Chó nhà có phên dậu của chó nhà. Không sủa mà được à.”.
Lớp học ban đêm vì ban ngày phải đi rừng lên nương. Trẻ con học chung lẫn lộn với người lớn. Trẻ con vừa học vừa ngủ gật, người lớn vừa học vừa tước lanh, ngậm tẩu hút thuốc rê khét mù. Dạo ấy, Sáng cũng dẫn Siu đi học. Siu học sáng dạ nhưng bàn tay quen chọc lỗ tra ngô, tra đỗ tương, quen dần sàng cám gạo rồi, cầm bút cứng quèo, ngượng ngập, vụng về, chữ viết như giá đỗ, như mộng ngô nếp. Một lần, thầy giáo cầm tay Siu uốn nét cho tròn cái chữ. Sáng ngồi ở bàn sau giận quá, máu chạy giần giật thái dương, mặt nóng bừng. Túm áo thầy giáo quân hàm xanh giật mạnh, Sáng giơ nắm đấm, bảo:
-Thầy giáo biên phòng không được nắm tay vợ tao.
ấy là lúc Sáng vừa lớn phổng lộc ngộc như con nghé mới mọc sừng, thấy gốc lim già là đánh sừng cho hết ngứa, thấy ổ mối bỏ lâu đất khô cứng cũng húc, Sáng có chí mà chưa có khôn. Giờ Sáng đã thành người lớn rồi. Sáng xuống núi lần thứ hai. Sáng mới dự lớp tập huấn nghiệp vụ công an dưới phố huyện. Phó công an huyện Của đặt tay lên vai Sáng thân mật nói:
-Chịu khó học về làm cho tốt, Sáng à. Cái ông Roi trưởng công an xã mày hỏng rồi.
-Không được nói xấu bố vợ tôi - Sáng hất tay Của ra, mặt xịu xuống.
-Tao nói không thật sao. Ông Roi mệt mỏi rồi, nhìn rừng chỉ thấy cây lim cây sến mà không ra nấm độc mọc. Không hỏng mà thế à?
Sáng nghe, biết vậy trong lòng đầy tức tối. Chỉ mong học cho ngày chóng tối, tháng chóng hết để về hỏi bố vợ xem phó công an Của nói có đúng không? Lại nghe người ta nói, Sáng không muốn tin là ông Roi thồ hàng giúp hoặc thuê gì đó cho người buôn. Đi họp huyện tiện đường là ông Roi lại thồ hàng lên, xuống núi. Khổ nỗi đường đi cứ phải qua Trạm kiểm soát liên ngành, qua trước cửa công an huyện mới đến chỗ giao và lấy hàng ở chợ. Có hôm thấy ông Roi ngất ngưởng trên mình trâu với cái sọt thồ nấm hương, sa nhân và cả con nhím con, phó công an Của nói: “Đất ngồi lên trời rồi. Trưởng công an xã hết việc đi buôn kìa. Sắp đến giờ họp đấy ông Roi ơi”. Ông Roi bảo: “Mày nhìn gà hoá cuốc rồi Của ơi. Tao thồ giúp, người ta trả công ít tiền uống rượu thôi. Của à”. Một lúc sau, đã thấy ông Roi hùng hục đánh con trâu quay trở lại, trên lưng nó thồ mì chính, đèn pin, vải vóc... Ông cột trâu ở sân bóng chuyền mặc cho nó quật đuôi đuổi ruồi xua muỗi rồi hối hả vào họp. Ông Roi thồ hàng cho mụ Dơi một chuyến, hai chuyến, ba chuyến còn có người thì thào soi mói; đến chuyến thứ sáu, bẩy, tám thì chả ai để ý nữa, coi như chuyện bình thường. Nhưng phó công an Của bảo: “Cứ để thế này hỏng mất. Phải cho người lên bản kèm cho đầu óc ông Roi sáng ra thôi.”...
Sáng đến nhà bố vợ. Ông Roi đi vắng chỉ có Sa đang lúi húi cho con dê mới đẻ ăn. Sa bảo Sáng lên cầu thang trước rồi Sa lên. Ngày Sáng lấy Siu, Sa còn bé chưa biết đi xim, ngực lép kẹp như con cá măng phơi khô. Giờ Sa lớn quá, gót chân trần trắng lấp ló ở cầu thang. Váy lanh mới nhuộm lá sồi đen bóng, áo vải xoa màu hồng nhạt in hoa dủ dẻ trắng. Vải này chắc Sa mua ở quán mụ Dơi. Cổ áo khoét rộng để lộ một mảng ngực trần trắng nõn. Đứng trên sàn nhìn xuống, lòng dạ Sáng nôn nao quá.
-Pui lại về đấy. Nó mời bố Roi uống rượu ở quán mụ Dơi. Anh Sáng à.
-Anh biết rồi.
-Anh Sáng đừng sang nhà chị Plăng nữa nhá - Sa nói trong tiếng thở gấp hổn hển, ngực căng cứng cứ dềnh lên, dềnh lên.
-Sang thì đã làm sao? Cứ để mặc... anh.
Chẳng hiểu sao lúc ấy Sáng lại nói thế. Sa làm mặt giận, bỏ ra đứng bên cánh liếp, tóc sổ tung đen mướt như tóc chị Siu ngày trước. Gió thổi, váy bay tấp tới mắc vào cánh liếp. Sa lúng túng gỡ mãi không ra, lộ cả bắp chân trắng nhấp nhoá làm mắt Sáng tối tăm.
-Sa đừng giận anh. Mới một mùa rẫy mà Sa lớn bỗng lên...
-Anh Sáng có để ý đến ai đâu. Chỉ ra suối nhìn người ta lấy nước thôi...
Váy lanh nhuộm lá sồi phai cả ra tay Sáng. Hơi thở của Sa nóng quá lại thơm thơm mùi sữa dê nữa.
Từ bản Cón Nhợi đến biên giới chỉ nấu xong nồi cơm đã tới nơi. Còn xuống huyện phải cưỡi ngựa, cưỡi trâu hoặc đi bộ một ngày mới ra đường cái. Đường xuống núi độc đạo gập gềnh lên xuống dốc, có chỗ cỏ mọc mất lối đi, có nơi cành cây loà xoà quất vào mặt. Hàng của mụ Dơi thường đưa lên bản, xuống huyện bằng đường này. Lúc xuống núi thì thồ nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, thú rừng còn sống; lúc lên rừng thì mang vải vóc, hàng tạp hoá. Cũng có lúc hàng tạp hoá của mụ Dơi được đem bán sang cả bản Tý, bản Miệt, bản Roong, lại có khi người các bản quanh vùng đến quán của mụ đổi hoặc mua đèn pin, dầu hoả, vải vóc, kim chỉ.
Nước ở cái khe phải đổ về con suối. Nước ở con suối lại đổ ra sông. Thằng Pui hay đứa nào mang hàng quốc cấm cũng phải có một nơi đổ. Nơi đổ ấy là quán mụ Dơi. Nhưng cứ chọc vào quán mụ Dơi là y như rằng chạm phải ông Roi. Một lần, Sáng xộc xộc đi thẳng vào trong:
-Mụ Dơi đâu. Cái quán này làm điên đảo bản Cón Nhợi rồi.
Thằng thọt chân coi nhà cho mụ Dơi thò tay tắt toạch cái ti vi chạy ắc quy đang ỷ eo. Mụ Dơi bước ra ngoài, tóc rối tung khuy áo cổ quên cài, ngực trễ nải dập dềnh.
-Kìa Sáng. Tôi có làm gì nên tội. Sáng ngồi xuống uống bia với tôi nhá.
-Không được mua chuộc người nhà nước. Tôi sẽ kiểm tra xem mụ có chứa đồ quốc cấm trong buồng không.
Giữa lúc mụ Dơi đang rối rít van xin thì ông Roi từ ngăn trong bước ra. Một thoáng đỏ mặt, ông Roi xoay xoay cái mũ nồi đen, chau mày:
-Sáng. Người ta làm ăn bình thường sao mày lại ngăn sông cấm chợ.
-Bình thường. Chuyện động rừng thế mà lúc nào bố vợ cũng: bình thường.
-Trẻ ranh. Biết cái gì. Khám xét phải có lệnh của tao. Mày vuốt mặt có nể mũi không?
Anh Nam y tế huyện mang thuốc cai nghiện về giúp bản Cón Nhợi. Anh Nam da ngăm đen, người cao to, mắt sáng, hơn Sáng năm tuổi mà trông dãi dầu từng trải quá. Anh Nam ở nhà già làng, lên danh sách người nghiện rồi đi từng nhà phát thuốc. Sáng dẫn anh Nam đến nhà Pui, Pui đi vắng, đến nhà Hủn, nhà Roong thấy cành lá xanh dấp ở cổng. Thì ra chúng nó không muốn tiếp người của y tế huyện. Anh Nam bảo: “Ông Roi vụng quá. Lẽ ra đừng để chuyện này xảy ra. Thôi xúm vào giải quyết, muộn còn hơn không.”. Sáng nghe biết vậy.
Suối Lồ lô mùa cạn chảy lóc tóc, có nơi vén váy bước trên các hòn đá nhô lên khỏi nước là sang được bờ bên kia, có chỗ vũng sâu lội đến ngang ngực. Đã ba ngày, Sáng cầm súng CKC phục ở ngay chỗ con đường độc đạo qua suối về đầu bản. Sáng chui ở lùm cây từ lúc sương sớm còn vấn vít bước chân đến lúc ông mặt trời đứng bóng rồi đi sang chiều, Sáng ngồi lỳ đến sẩm tối cũng không thấy bóng dáng Pui đâu. Giờ thì đã cuối chiều, mặt trời màu vỏ bí ngô chín đỏ đang gác núi. Chán quá! Sáng về thôi. Để thằng Pui mang hàng về quán mụ Dơi rồi ập vào kiểm tra là không được với ông Roi. Vậy tóm thằng Pui ở đâu, nó thoắt về thoắt đi chả biết mang gì trong người. Chờ lâu quá. Chả lẽ cứ ngồi như con cú rình suốt đêm à. Về. Về thôi. Bất chợt, chỗ vũng sâu ở đoạn suối trước mặt Sáng có sóng loang. Sáng vạch lá nhìn ra thì trời ơi không phải Pui mà là Sa. Sa mặc nguyên cả áo váy đang nhẩn nha lội ra chỗ sâu nhất, rồi Sa ngụp xuống, Sa đứng lên. Vải áo mỏng dính bết vào da làm nổi lên các đường cong mềm mại. Mặt suối như bắt đầu có sương bay. Sương trắng mỏng tang lãng đãng trên mặt nước, sương quấn quýt quanh thân thể người thiếu nữ đang lồ lộ lớn. Sáng đành ngồi lại lặng không nhúc nhích, kìm nén cho hơi thở nhỏ lại, cho lồng ngực khỏi vỡ tung. Sáng vẫn ngồi chết trân bởi Sa đã lên bờ rồi, Sa tìm chỗ thay váy. Sáng nghẹt thở quá. Một làn gió mát thoảng nhẹ qua, Sáng cảm nhận mùi thơm hoa dủ dẻ quện lẫn mùi da thịt con gái phảng phất. Cũng đúng lúc ấy, đúng lúc Sa đang lúi húi thay váy trước mặt Sáng thì có tiếng móng trâu lộc cộc, lộc cộc. Thằng Pui về. Con trâu bạc nhà mụ Dơi thồ hàng nhẹ tênh, bước uồm uồm qua đoạn suối phía trên, chỗ Sa vừa tắm. Pui không qua đoạn suối cạn rồi. Sáng muốn lao ra khỏi lùm cây quá. Nhưng thấy động, thấy có người, Sa cũng đang ôm váy ướt vào ngực ngồi dúm dó ở gốc cây kìa. Sáng thở dài. Thở dài cho Pui đánh trâu qua suối. Thở dài chờ cho Sa rũ, vắt khô váy đi về rồi Sáng mới chạy lao theo. Sa cầm váy ướt trên tay, nhẩn nha bước. Sáng chạy vượt lên trước Sa. “Anh Sáng. Pui thồ hàng về đấy.”. “Biết rồi.”. “Em bảo đã.”...
Sáng không kịp nhận ra nét mặt giận hờn của Sa nữa. Sáng đang nung nấu ý định quyết bắt bằng được Pui mang hàng cấm ở giữa đường. Sáng đuổi kịp Pui rồi chạy vòng lên đứng chặn trước đầu con trâu.
-Pui. Mày có gan mang hàng quốc cấm thì có gan giơ tay chịu trói không?
Pui vẫn ngồi ngông nghênh, người hơi ngửa về đằng sau. Tay cầm dây thừng, tay rút khỏi túi quần vươn về sau vỗ vỗ vào đuôi trâu.
-Không có gì đâu. Mày nhầm rồi. Sáng ơi.
Pui nói gằn từng câu. Sau mỗi lần nói gằn là cái đít con trâu lại lồng nảy lên, chân sau nó đập cộc cộc, cái đuôi quật đét đét.
-Tao không nhầm đâu.
-Thì đây. Mày xem đi.
Toàn măng tươi. Chả lẽ mày đi biên giới thồ hàng măng tươi, hả Pui? Đồ khốn. Sáng rủa thầm trong bụng.
-Sao mày cứ ám tao mãi thế. Mày không sợ dân bản bảo mày không lấy được Plăng, mày ghen à. Tao đi được chưa?
Pui cười. Chuỗi cười dài, sảng khoái đập vào núi đá vọng lại như trêu tức Sáng, như bảo Sáng: Đừng hòng làm gì được tao.
Sáng đập mạnh tay vào hông con trâu, gầm lên như con hổ bị mất mồi:
-Mày đừng có giễu tao. Thằng thiến lợn thiến bò rong. Chờ đấy Pui ạ.
Con trâu thồ măng bị đánh đau tức hông lồng lên khua móng cộc cộc. Đi mấy bước nó vội vã đứng lại rạng chân ra... tông tỗng. Chất thải một màu đen kịt rơi xuống mà sao lại nhấp nhoá trắng như có ánh mặt trời cuối chiều chiếu vào. Sáng tức điên người, hay mắt Sáng mờ nhoà rồi. Mờ nhoà thật. Bố khỉ tí nữa thì giẫm phải đống phân trâu còn đang bốc khói.
Sáng tức quá, về nhà không ăn cơm được cứ ấm ức vào ra. Anh Nam y tế huyện hỏi nguồn cơn. Nghe xong anh Nam bảo:
-Ngu rồi Sáng ơi. Cái mắt mày không mờ nhoà đâu. Chỉ có cái đầu mày tối thôi. Đi ngay với tao.
Cái đầu Sáng tối thật. Anh Nam y tế và Sáng thở hồng hộc chạy đến chỗ con trâu đứng dạng háng lúc cuối chiều thì đống phân trâu đã canh cách ra nát bét. Tìm rộng ra thấy bốn nửa cái vỏ bóng bàn trắng lấm lem... vứt ở lùm cây.
-Thằng Pui quay lại lấy rồi. Mỗi lần con trâu nhảy lồng lên là một lần nó nhét quả bóng bàn đựng hàng cấm vào đít trâu đấy. Ngày còn bé chăn trâu ở nhà, bọn tao nghịch ngợm nhét qủa găng vào lỗ đít trâu là chuyện thường, Sáng à.
Trời đất như sụp xuống chân Sáng, mắt Sáng nở hoa cà hoa cải. Chịu thua thằng Pui rồi. Sáng đi tập huấn ở huyện, cán bộ bảo bọn buôn lậu tinh vi, lắm, chúng dám bỏ cả thuốc phiện vào bụng đứa trẻ con bị chết để qua mắt công an. Nhưng chưa thấy cán bộ nói đến cái trò ma mãnh này. Sáng lại thở dài:
-Ai mà biết được. Chúng có từ thủ đoạn nào đâu.
Anh Nam đến quán nhà mụ Dơi chỉ có ông Roi đang uống rượu. Sáng đến nhà Plăng, chẳng thấy Pui đâu.
-Pui nó không về nhà đâu, Sáng à.
-Plăng ơi! Con trâu bạc nhà mụ Dơi đang ở gầm sàn nó bảo tôi biết Plăng nói dối rồi. Plăng dấu Pui ở đâu?
-Sáng ơi. Sáng đừng bỏ tù Pui. Tôi khổ quá rồi.
Plăng sụt sùi. Đứa bé địu sau lưng giật mình cũng khóc. Gió thổi lật vạt áo hở cả cái rốn lồi và bụng Plăng to lùm lùm. Sáng bối rối quá. Lần đầu, Sáng thấy Plăng khóc. Tiếng khóc trẻ con lẫn tiếng khóc đàn bà, mủi lòng quá.
Dân bản đồn: Ông Roi vợ chết đã lâu, đêm nằm không vắng hơi người đàn bà. Ông Roi đến bổ củi cho mụ Dơi, nấu rượu cho mụ Dơi, đi họp huyện lần nào ghé qua nhà mụ Dơi lần đó. Ông Roi quên cả ngày rỗ vợ rồi. Mụ Dơi bỏ chồng dáng phốp pháp ngồn ngộn thế, ông Roi si mê là đúng rồi. Cái ông Roi, cho cút rượu là chả biết trời đất là gì. Gìa làng Sanh thì bảo: “Chả lẽ Roi hỏng thế. Có dễ con trăn đất đang thu mình, nào biết chuyện gì sẽ đến.”. Dân bản Cón Nhợi cũng đồn ầm lên: Sáng cứ thì thụt đến gặp Plăng khi Pui vắng nhà. Người độc miệng còn bảo: Thằng Pui xa nhà liên miên nên Sáng thành tu hú muốn sang đẻ nhờ rồi. Sáng nghe được nhưng bỏ ngoài tai, chỉ thương Plăng đi đâu cũng cúi gằm nhìn xuống.
Mấy hôm sau, trẻ chăn trâu, chăn ngựa ở bản hát khúc đồng dao:
Cón Nhợi có suối
Suối ngay đầu nhà
Cón Nhợi có núi
Núi ngay đầu bản
Bản sinh kẻ ác
Người hiền ở đâu?...
Lửa cháy. Cháy lúc trời chưa sáng, lửa dữ dội quá sáng một góc rừng hoang. Nhà nọ cách xa nhà kia nên đàn bà, trẻ con bản Cón Nhợi chỉ đứng ở cầu thang nhà sàn nhìn. Đàn ông thì vừa chạy hùng hục vừa la. Thằng thọt chân coi quán mụ Dơi đứng hong hóng ở đường bảo: “Thằng Pui tự đốt nhà mình đấy”. “Có mà điên mới vậy.”. “Thằng Pui đi thồ hàng về nửa đêm thấy cổng dấp cành lá, cửa nhà khoá trái. Gọi mãi vợ không lên tiếng.”. “Không lên tiếng vì sao?”. “Vì thằng Sáng ngủ với con Plăng ở trong nhà chớ sao.”... Cứ vậy vừa chạy vừa hỏi, vừa nói, tin đồn loang khắp bản. Đến nơi rồi chỉ thấy con trâu bạc buộc ở cổng mắt bắt ánh lửa nhấp nhoá. Đến nơi rồi họ vẫn còn hỏi có phải thằng Sáng ở trong đống lửa. Suối nước Lồ lô ở xa quá và họ cũng chỉ có tay không nên đứng nhìn. Cửa nhà sàn khoá cứng. Lửa liếm đều bốn phía, chứng tỏ kẻ đốt nhà có tính toán. ống bương nổ toang toác, mái tranh cháy rèo rèo. Mọi người hò hét như điên bảo nhau nhảy vào cứu mẹ con Plăng nhưng vô ích. Một lúc sau, căn nhà sàn ọp ẹp của Pui cháy rụi. Than hồng rực sau mỗi lần gió thổi tới rồi tàn dần. Trưởng công an Roi đến lúc mọi người đang gạt tro than tìm xác vợ con Pui và Sáng... Trong ánh đuốc lồ ô bập bùng, ông Roi khoát tay gọi dân quân: “Tôi phát lệnh truy lùng thằng Pui.”...
Ông Roi đánh trâu xuống núi ngay lúc rời đám cháy nhà Pui. Trong đầu ông đang nghĩ đến bao nhiêu chuyện xảy ra ở bản Cón Nhợi. Sương sa trùm mặt đất, sương lập lềnh ngang gối chân, sương dềnh lên trùm cả lên đầu trâu.
Ông Roi đi ngang quán mụ Dơi. Mụ vừa tắt đèn, lúi húi khoá cửa rồi cùn cụt từ trong quán chạy ra, đụng phải ông Roi, Dơi sững người lại. Ông Roi bảo:
-Kìa! Dơi đi đâu sớm thế?
Mụ đã trấn tĩnh lại:
-Dơi đi lấy hàng. Tiếng trâu bước bảo Dơi có người thân. Ra đón thôi mà.
Ông Roi vẫn ngồi ngất ngưởng trên mình trâu:
-Nhà đỏ đèn mấy đêm rồi, có phải Dơi không ngủ được Dơi chờ ai?
-Chờ ai chỉ anh Roi biết thôi. Hay vào trong nhà đã anh Roi.
-Không vào đâu. Tôi xuống núi, ta đi cùng thôi.
Dơi lưỡng lự rồi bảo:
-A. Có đấy. Chờ Dơi xuống chợ cùng, anh Roi à.
Mụ Dơi săm sắm đưa túi thổ cẩm đựng hai nắm cơm gói sẵn bằng lá chuối khô cho ông Roi khoác. Mụ chất nốt hai lưng sọt nấm hương lên mình trâu rồi bẻ cành lá xanh cài vào cánh cổng. Ông Roi dong con trâu thồ đi trước, mụ Dơi theo sau. Trời rạng dần. Họ nhấp nhô trong sương trôi bồng bềnh.
Trưa. Hai người cột trâu dưới gốc cây sồi nghỉ ăn cơm. Dơi lấy dao con sắt vắt cơm tẻ ra thành từng miếng. Ông Roi ngồi xếp bằng lấy cút rượu nhỏ mang theo bên người ra nhấm nháp với thịt nai khô. Dơi vén tóc loà xoà vấn thành lọn ở gáy. Cái cổ Dơi trắng quá làm ông Roi thỉnh thoảng liếc mắt nhìn trộm...
Lần trước, xuống núi cũng nghỉ trưa ở gốc cây sồi này. Hôm ấy, ăn cơm xong, ông Roi nằm gối đầu lên túi thổ cẩm có gói cơm nếp của Dơi, nhìn lơ đãng lên ngọn cây. Dơi kéo cao vạt váy bước xuống suối Lồ lô. Mùa cạn nước suối trong vắt nhìn thấy cả đá cuội ở đáy. Len lỏi chảy nhanh qua bao đồi núi đến đoạn này suối Lồ lô mở to ra và chảy chậm. Một lát sau, có tiếng khoả nước. Ông Roi xoay nghiêng người, ông không tin ở mắt mình. Dơi đang lội ra giữa dòng, nước ngập đến đâu vén váy đến đó, nước ngập đến cổ đã vén xong váy đội lên đầu. Thân hình Dơi trắng mềm mại rõ mồn một. Mắt ông Roi nhấp nha nhấp nháy. Cái thân hình đàn bà khêu gợi ấy mờ ảo dưới sóng nước loang loang rồi chập chờn trong đầu người đàn ông goá vợ đã lâu. Ông Roi nhắm mắt lại, hít thật sâu cho lồng ngực nở to ra, cho cổ họng khỏi nghẹt thở. Trong lòng ông như có lửa cháy...
Dơi lên bờ quay trở lại gốc cây sồi. Cổ áo váy quên cài cúc hở lồ lộ cả chỗ giữa hai chân vú làm giọt nắng rơi vào. Ông Roi đang ngây ngất một mùi thơm rất khó tả thì gió núi thổi ào tới. Lá rừng xào xạc, xào xạc. Rồi lắc rắc, lắc rắc như mưa rào rơi, như vẩy nước trên lá. Hoá ra gió đập vỡ tổ, kiến càng đang rơi lả tả, lả tả. Vội vã kéo nhau chạy khỏi gốc cây sồi, hai người luống cuống ngã dúi dụi vào nhau. Bỗng Dơi giật thột: “Ki...ến rơi vào gáy em”. Ông Roi vạch cổ áo Dơi bắt con kiến mình đỏ cánh trắng đang cong mình, cắn. “Nó rơi cả vào ngực nữa. Anh Roi.”- Dơi nắm hai mép cổ áo váy kéo rộng ra, hở hông hốc. Ông Roi nín thở nhón con kiến rất khẽ nhưng ngón tay vẫn chạm vào chân vú nóng hổi của người đàn bà. Ông nuốt nước bọt đánh ực rồi bỗng dưng đổ khuỵu xuống nền cỏ...
Không dám nghĩ tiếp đến cái buổi trưa ma ám hôm ấy, ông Roi vội vã ăn cơm. Ăn xong, Dơi cũng giục đi ngay không nghỉ lại và tắm suối Lồ lô như lần trước nữa. Dơi tắm thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Không khéo, hỏng việc.
Phố huyện mỗi lúc một gần hơn. Đến Trạm kiểm soát liên ngành, anh Trạm trưởng tuổi còn trẻ đon đả: “Hôm nay cưỡi trâu xuống huyện sớm hơn lần trước, bố Roi nhỉ. Không cho cô Sa đi theo à”. “Nó phải chăn dê. Cái Trạm chúng mày vắng vẻ quá.”. “Chúng con đang thất nghiệp đây. Lần sau, cho cô Sa đi cùng bố nhá.”. “ờ. Mày làm con rể tao không?“. “Ôi! Thế là nhất bố rồi.”. Ông Roi hồn nhiên hiền lành đến mức khù khờ mà cũng biết đùa. Còn Dơi thì trống ngực to hơn trống làng, đi qua Trạm một lúc mới thở phào. Đến đoạn đường dễ đi hơn, Dơi có vẻ vui nói luôn miệng. Rồi kêu mỏi chân quá, ông Roi phải nâng đít cho Dơi leo lên ngồi trên mình trâu. Ông lại mải miết dong trâu và nghĩ ngợi bao nhiêu chuyện: Chuyện Sáng đi học về, chuyện mụ Dơi và thằng Pui, chuyện dân bản dị nghị. Lại chuyện thằng Nam y tế, lúc lửa cháy nó cáu: “Không khéo hỏng việc rồi. Bây giờ ông phải nghe tôi.” Thì nghe cả tháng rồi còn gì, cái nào có lý thì nghe chứ... Tức cái bụng lắm, nhưng không tức bằng nghe thằng Của nói: “Ông Roi nhìn rừng chỉ thấy lim với táu không nhìn ra nấm độc.”... “Phải cho người lên kèm cho đầu óc ông Roi sáng ra thôi.”...
-Đến rồi. Đưa túi thổ cẩm đựng gói cơm nếp cho Dơi nào. Anh Roi.
Nghe Dơi nói, ông Roi giật mình ngẩng lên thì đã qua cổng công an huyện mấy bước.
-ồ, cơm nếp của Dơi đây. Đến rồi thì vào thôi. Dơi ngồi yên nào.
Bỗng chốc, ông Roi dắt trâu quay ngược trở lại, ông vỗ mạnh tay vào hông cho nó lồng nhanh vào cổng công an huyện. Dơi hoảng quá, ú ớ:
-Kì...a... anh... R...oi.
-...
Bất ngờ quá. Dơi không kịp phản ứng, mặt trắng bệch, người mềm nhũn đổ kềnh trên mình trâu. Ông Roi chạy theo trâu, hai tay giữ chặt lấy người Dơi để không lăn xuống đất. Công an huyện vừa lúc hết giờ hành chính, phó công an Của kêu to:
-Lạ chưa kìa. Chắc hôm nay không bình thường rồi, ông Roi.
Mọi người xúm quanh giữ con trâu lại và đưa mụ Dơi xuống.
-Có vấn đề đấy. Tao đem người đàn bà với nắm cơm nếp nộp cho mày đây. Đừng nói tao không nhìn ra nấm độc nữa nhá. Của ơi.
-Chào ông Roi. Tôi cứ nghĩ ông và mụ Dơi sẽ thồ hàng về luôn cổng chợ. Ông làm hỏng việc giữa chừng rồi.
Ông Roi ngước nhìn. Một người da ngăm đen, mắt sáng, mặt quen quen.
-Ô. Hoá ra thằng Nam y tế huyện. Sao mày lại ở đây?
-Tôi đi theo luôn ông và mụ Dơi đấy.
-Vậy là... ừ. Cái đầu tao tối quá nghĩ không ra. Tao không có sức làm việc này nữa rồi. Chúng mày cho tao nghỉ thôi.
-Chuyện còn dài. Còn để mụ Dơi đem hàng quốc cấm bỏ trong nắm cơm nếp đến nhà Vạn ở cổng chợ đã, ông Roi à. Anh Của để tôi xử vụ này cho...
Ông Roi xuống núi một lúc là sương tan và mặt trời trèo lên đỉnh đồi thì dân bản thấy Sáng gí khẩu súng trường sau lưng thằng Pui đi từ đầu bản về. Pui cúi gằm mặt, đầu tóc bơ phờ, râu ria tua tủa. Dân bản mới ngã ngửa người chả hiểu thế nào.
Già làng Sanh bảo: Thì ra cán bộ y tế Nam là công an huyện. Nó nằm phục bên nhà mụ Dơi một đêm không thấy gì, hai đêm không thấy gì. Đến đêm thứ ba thì thằng Pui mò về đưa hàng cấm cho mụ Dơi. Mụ Dơi ấn vào tay thằng Pui mấy chục đồng bạc trắng, bảo: “Ba đêm mày đi thồ hàng, thằng Sáng ngủ với con Plăng cả ba. Cửa nhà không khoá được, cổng không dấp cành lá xanh được. Tao có lỗi với mày.”. “Tôi sẽ chém chúng nó”. “Không được đâu Pui à. Thằng Sáng có súng đấy. Cầm cây đuốc lồ ô này, chờ gần sáng nổi lửa. Rồi hãy đi thật xa”... Cán bộ y tế... à công an Nam thế mà tốt. Nghe xong nó chạy đến nhà lão Roi bàn nhau gì đó rồi chạy về nhà tao. Tao với lão Roi đến nói Plăng nghe ra mới khoá cửa bế con đi lánh nạn.
-Thế mấy ngày nay, thằng Pui ở đâu?
-Nó lánh ở rừng ma chớ còn ở đâu. Đói quá, không có gì để ăn, chỉ có các đồ dùng người sống chia cho người chết và những căn nhà mồ vắng vẻ. Mò về nhà mụ Dơi đưa hàng cấm lấy bạc rồi lại ra rừng ma. Chưa kịp quay về đốt nhà mình, lửa đã cháy. Pui lò dò chui ra thì Sáng gí súng vào gáy. Hoá ra không phải thằng Pui đốt mà là thằng thọt chân coi quán mụ Dơi. Thằng Sáng cháu tôi thế mà mưu mẹo. Khá quá!
Mọi người ồn ào, rồi tản đi.
Sáng dẫn Pui đến uỷ ban đã thấy thằng thọt chân đang bị giam. Sáng bảo Pui: “Tao biết mày muốn gặp Plăng.”. Sáng lại dẫn Pui đến nhà già làng. Pui bảo:
-Tao nhục lắm. Mày cho tao viên đạn đi, Sáng.
-Mày nói sai rồi, Pui à. Tao bắn mày để dân bản bảo tao là thằng ghen ăn tức ở à.
-Mày có bắt tao đi tù không?
-Chuyện ấy nói sau. Giờ tao không áp giải mày, tao cho mượn trâu, tự mày thồ vợ xuống núi. Vợ mày địu đứa bé hon hỏn, bụng to kềnh kệnh xin, chắc được giảm án đấy Pui à.
-Tao lại mắc nợ mày lần thứ hai.
-Thôi, nợ nần gì. Plăng ôm con ra kìa.
Sáng bước ra ngoài cổng. Lũ trẻ con đã thôi hóng chuyện người lớn quay sang đùa nghịch với con rắn của già làng. Con rắn ngậm viên thuốc rê nghếch cao đầu đu đưa như đoạn dây thừng. Sa ngồi ở dưới gốc cây cổ thụ chống tay lên má. Nắng mới đã tràn đầy sân nhà già làng. Giọt nắng lọt qua kẽ lá rơi xuống như hoa đậu vào tóc, vai của Sa. Sa khóc tức tưởi như chưa bao giờ được khóc. Sáng bối rối quá, chưa bao giờ Sáng dỗ con gái khóc. Già làng bảo: Khóc được như con Sa, tao cũng muốn khóc. Mặc nó. Lửa cháy trong rừng hoang tắt rồi.
CHA TÔI
Nhà tôi có bốn người.
Cha tôi thế hệ 5X, chớm già. Sinh năm Canh Dần, theo tuổi bà mụ, tính đến nay cha vừa tròn năm mươi chín tuổi. Hơn nửa thế kỷ có mặt trên đời thì hơn bốn mươi năm cha mặc áo nhà binh, cầm súng và xa nhà. Cha tôi lấy vợ muộn và lại muộn đường con cái bởi đi chinh chiến hết miền Nam rồi lại sang Căm Pu chia đến năm 1989 mới về nước; rồi ở lì ở Tây Nguyên thỉnh thoảng mới về nhà.
Mẹ thế hệ 6 X, sinh sau cha 1 giáp, luôn chịu cảnh xa chồng. Nay mẹ đang ở tuổi hồi xuân rực rỡ (đấy là nhận xét của bạn cùng thời với mẹ, chứ tôi đâu biết thể nào là hồi xuân?). Có lúc mẹ mặc áo hai dây trong suốt, để vai trần, đi xe máy @. Mẹ làm chủ cửa hàng mỹ phẩm Hàn Quốc, và rất thích ngâm mình trong bồn tắm thả ngập cánh hoa hồng Đà Lạt.
Chị Mai tôi thế hệ 7X đã ba mươi năm nhìn thấy ánh sáng mặt trời; yêu ngầm thì nhiều, nhưng chưa tìm được chàng trai nào đáng làm chồng. Chị tôi mắt đen buồn, tóc xõa ngang vai, sống nội tâm ẩn mình khép kín, yêu thích phim Hàn Quốc. Tốt nghiệp đại học, chị đi làm cho một doanh nghiệp Nhật Bản, suốt ngày ăn cơm tiệm.
Tôi, thế hệ 9X - mười chín tuổi, tốt nghiệp phổ thông hạng làng nhàng, thi vào đại học hai lần đều trượt. Sống theo ý mình luôn là cảm hứng thường trực và tự do muôn năm. Mẹ tôi lúc nào cũng bận tối mắt tối mũi với Cửa hàng mỹ phẩm Hàn Quốc, chẳng để ý gì đến chuyện học hành của con mà khoán trắng cho gia sư. Sống tự do theo ý thích, tôi suốt ngày chơi bời, đàn đúm. Chỉ trong có mấy năm phổ thông trung học, tôi đã kịp đánh mất ba xe cuốc, cắm quán hai con dream, đầu tóc thì đổi kiểu xoành xoạch; hết nhuộm hoe hoe vàng lại hấp màu lông chuột. Tôi với mẹ hợp tính ưa nết. Tôi với cha như nước với lửa, như mặt trăng với mặt trời.
Cha khoác ba lô về hẳn nhà, nghỉ hưu. Một ba lô quân phục màu cứt ngựa. Hai đôi dầy đen một cũ một mới. Một mũ kê pi. Chín cái huân, huy chương đỏ rực, vàng chóe. Một đôi dép đúc mòn vẹt gót. Nghe nói cha cất giữ từ hồi ở Trường Sơn.
- Cha đi bộ đội, xa nhà hơn một phần ba thế kỷ mới về mà không có gì tặng mẹ con à?
Tôi rất láu cá hỏi cha, và chỉ sợ mẹ mắng. Cha tôi cười trừ:
- Thì cha đã tặng mẹ một đứa con gái, một thằng con trai rồi còn gì nữa.
Tôi thoáng thấy mẹ lặng buồn. Mẹ nhìn nhanh xuống cổ, xuống tay; toàn dây chuyền, vòng kiềng, nhẫn mặt đá quý lóng lánh mà mẹ tự mua để... tặng mình.
Cuộc sống nhà tôi bước sang trang mới kể từ khi cha có mặt ở nhà. Hình như mọi thứ đều đảo lộn. Hình như mọi người không hiểu nhau.
Cái bếp nhà tôi quanh năm không đỏ lửa. Thay đổi đầu tiên là việc cha bắt mẹ tôi hàng ngày phải đóng cửa hàng mỹ phẩm lúc 5 giờ chiều, về nhà sớm nhóm bếp nấu cơm.
- Căn nhà có cái bếp; cái bếp phải đỏ lửa mới ra cái bếp các con ạ. - Cha tôi lại bảo - Ngày xưa nấu toàn nồi đất chứ đâu được bếp âm, nồi i nốc, chống dính như bây giờ...
Bếp không đỏ lửa. Cha tôi buồn. Cha phàn nàn đứa con gái gần ba mươi tuổi mà vụng về, lơ là bếp núc. Bếp lạnh tanh. Nồi niêu xoong chảo để mốc, lăn lóc, toàn cứt dán. Cha mang vào phòng vệ sinh cọ rửa sáng bong. Cha bảo chị Mai:
- Cha không hiểu sau này con về nhà chồng, con sẽ nấu nướng thế nào?
Chị tôi nhấm nhẳng:
- Cha đừng lo. Con không lấy chồng đâu. Chẳng có thằng đàn ông nào đáng làm chồng con.
Cha tôi buồn suội. Nếu là tôi, ông đã “ục” liền; nhưng với con gái, cha tôi lại nhẹ nhàng, không hề cáu giận. Ngày xưa, bằng tuổi chị Mai bây giờ, bà nội đã đẻ ba bác và cha tôi rồi. Chị Mai gần ba mươi tuổi mà chưa đứng đầu đứng số, cứ sống trơ trơ bên bố mẹ. Cha tôi tỏ ra sốt ruột và lo lắng. Con gái nước Nhật lấy chồng muộn hơn; có khi còn không chịu xây dựng gia đình, ở một mình khi thích đàn ông thì cặp, chán lại bỏ; lấy chồng như đeo gông. Nhưng đấy là nước Nhật, chứ không phải nước Nam ta. Càng nghĩ, cha tôi càng buồn phiền. Giọng ông nghèn nghẹn, có phần đau xót:
- Con đừng nói thế, cha đau lòng.
Chị tôi chợt thấy ân hận:
- Lo gì cha ơi. Con có về nhà chồng thì bếp cũng không cần đỏ lửa. Con chọn chồng giàu, không phải nấu nướng, đi ăn tiệm tiện hơn. Khỏi phải rửa bát.
Mẹ tôi hóng chuyện, nói chõ vào:
- Ấy là tôi chưa duyệt. Con rể tôi mà quanh năm xa nhà như ông, thì con gái tôi vò võ chờ đợi, thèm chồng cũng héo hon gầy mòn như mẹ nó thôi.
Mặt cha tôi có vẻ rạng lên một chút và ngượng ngùng như người có lỗi, cha tôi đánh trống lảng:
- Con thấy mẹ trách bố khéo chưa. - Cha qua sang nói với mẹ tôi. - Em biết rồi còn gì nữa: Anh lúc nào cũng là một người lính.
Rồi cha tôi căn dặn mẹ:
- Đồ ăn hàng ngày em đừng mua bán cầu kỳ. Ba cái đồ xúc xích, lạp sườn, thịt hun khói, ba tê... sang thì sang thật; nhưng của người Tây, không hợp với nhà mình. Cứ canh cua, cà pháo, cá bống hay thịt trâu xào rau cần tỏi, hoặc thịt lợn ba chỉ rim mắm tép như ngày xưa anh ăn ở quê là thú nhất.
Mẹ tôi cười rộn, đùa vui với cha:
- “Ông thộn” ơi! Đặc sản quý hiếm đấy. Nấu một bữa canh cua cho cả nhà ăn cũng hết đến 20 ngàn đồng. Một đĩa thịt trâu như anh nói không dưới bẩy mươi ngàn. Để tôi đưa “ông thộn” và cả nhà đi quán "Hương quê" ăn cho tiện. Mắc quá hết hai triệu đồng là cùng.
Cha tôi chối đây đẩy, bảo ăn nhà vẫn hơn, bảo bão lụt miền trung còn bao nhiều người khổ hơn mình. Cha lập lại trật tự: trừ bữa trưa tuỳ nghi di tản, còn lại "cả nhà xum họp". Hết tiệt những ngày mẹ phát cho tôi ba chục nghìn, muốn gì tự mua nấy mà ăn. Hôm nào mải ùng oàng với thế giới games, ăn qua quýt hoặc nhịn, mẹ cũng chẳng bao giờ biết cả. Ăn uống không điều độ, bữa đực bữa cái nên tôi gầy như cái que củi. Bây giờ đến bữa cơm, cha ngồi bên gắp thức ăn đầy bát bắt con ăn. Đứa lát chả, đứa khoanh giò, song chị em tôi khảnh ăn lại gắp ra hết bỏ vào đĩa. Mặt tối sầm lại, cha bảo: "Nhìn các con ăn nhỏ nhẻ, cha buồn quá. Cứ như lính tráng của cha đánh ục một cái là bốn bát cơm đầy có ngọn. Ăn được thì mới chạy nhảy, hành quân rèn luyện được; chứ như các con, nhìn cớm nắng lắm. Ngày xưa, cha chỉ có bo bo với cháo rau má. Xanh cả ruột. Năm hết tết đến mới có tí thịt mỡ bôi mép, nhìn miếng thịt mà mắt sáng lên. "
Lại ngày xưa, cái điệp khúc ấy tôi đã nghe nhiều lần đến phát chán rồi mà cha ngày nào cũng nhắc lại. Ngày xưa cha sống kham khổ cả năm vào dịp tết mới có miếng thịt bạc nhạc... Ngày xưa cha vất vả suốt ngày đi trâu tóc cháy nắng đỏ như râu ngô, phải đi tát múc kiếm con cua con cá cờ nấu dấm, chứ không sung sướng như các con bây giờ đâu... Những lúc ấy tôi thầm nghĩ: cha nói quá vậy thôi; làm gì đến nỗi khổ thế. Tôi chẳng tin. Cái ngày xưa của cha đi vào đầu chúng tôi rồi biến mất ngay, chẳng hề lưu lại một chút gì gọi là hình ảnh hay ấn tượng. Cha và tôi, đúng hơn là cha và cả nhà khác biệt quá nhiều thứ. Dường như bắt nguồn từ việc cha đi bộ đội, xa gia đình quá lâu. Đời sống bộ đội nghiêm nghỉ, niêm luật nhà binh ngấm vào máu cha rồi; và cha mang nguyên phong cách sống ấy về nhà.
Cha vẫn tự hào:
- Cha về nhà nghỉ hưu, nhưng cha vẫn có một tiểu đoàn quân trong thành phố. Cha ới một tiếng là các bác, các chú ấy có mặt ngay.
Mẹ tôi bảo chồng:
- Anh đã cầm quân một sư đoàn. Bây giờ về còn cần gì nữa?
Cha bảo:
- Là anh nói: anh em cùng đơn vị phục viên, nghỉ hưu, chuyển ngành về thành phố này đông tới vài trăm người. Ấy là chưa kể cán bộ chiến sĩ trưởng thành từ sư đoàn anh chuyển công tác về các cơ quan Bộ, đương tại ngũ, đội mũ đeo sao. Lúc trái gió trở trời bằng ấy người xúm vào thì lo gì. Anh mà chết thì có cả một tiểu đoàn quân đưa tiễn.
Mẹ tôi không nói, chỉ thở dài.
Đúng là bạn bè, cấp dưới của bố nghỉ hưu, phục viên, chuyển ngành về thành phố đông cỡ vài trăm. Ông nào cưới con, đem danh sách đồng đội cùng sư đoàn X. trải ra trước mặt, bốc điện thoại lên vừa xướng vừa mời là có mặt gần đủ. Khách đến dự mặc toàn sắc phục nhà binh; cũng là dịp để các ông đương binh, cựu binh gặp nhau hàn huyên.
Cha trở về, cha mang theo nguyên hình vị đại tá tại ngũ. Sáng mới 5 giờ, cha đã gọi tôi dậy lên sân thượng tập thể dục. Cha hô một hai, một hai; con cũng hô một hai... một hai..., đến mức sáng bảnh bà hàng phố ngó đầu sang bảo: "Nhà mày đang huấn luyện tân binh a?" Mẹ tôi không giận cứ cười ngặt nghẽo.
Cha tôi đọc báo nghe đài, xem ti vi. Ông càng lo cho tôi - đứa con trai độc nhất. Nó mà dây vào nghiện hút thì không những đời nó tàn mà cả nhà khổ,, ông sẽ mất con. Lúc nào, cha tôi cũng cảm thấy bất ổn. Đi ra đường thì sợ tai nạn giao thông, về nhà thì chỉ sợ con hư hỏng, sợ vợ làm ăn đổ bể... Suốt cả đời, cha tôi quen rèn luyện người khác, quen chăm lo người khác nên nó ngấm vào máu, thành thuộc tính cố hữu rồi.
Tối, cha bắt cả nhà đi ngủ sớm. Riêng điểm này thì tôi khó chịu lắm, cứ mặt nặng mày nhẹ với cha. Bấy lâu nay quen sống tự do, tôi học hành ấm ớ rồi vào mạng internet chơi games hoặc chat với mấy đứa "chíp con" cùng lớp đến một, hai giờ sáng. Một tuần, mẹ tôi sáu ngày đến vũ trường nhảy nhót, hoặc đi uống cà phê đến khuya mới về. Chị Mai mải xem phim Hàn Quốc liên miên. Cái thứ phim toàn khóc lóc, thất tình, ung thư, hoặc bệnh máu trắng rồi ân hận, sám hối...; có gì đáng đồng tiền bát gạo mà lấy mất thời gian của chị tôi đến thế? Cha về. Cha thiết quân luật. Đừng hòng ai thức khuya quá 11 giờ đêm. Cha bảo: “Cứ như đơn vị bố thì 9h30 là kèn báo ngủ đã tèn teng... tèn teng... Anh nào có muốn đọc nốt bài báo cũng không được; vì trực ban... tắt điện.” Chị Mai tôi than thở: “Cứ thế này thì tao đến phải lấy chồng mất thôi; “chạy trốn” vào nhà bà mẹ chồng có khi còn tự do hơn.”
Tuy có ca thán về cha, nhưng chị Mai thương cha vô cùng. Cái dạo chị mới năm sáu tuổi, cha về phép. Một cái khung xe đạp, một con búp bê tóc vàng, vài mảnh vải cho vợ con; vậy mà cả nhà vẫn đầm ấm, hạnh phúc, vui vẻ. Cha rất quý con gái. Ngày ấy, gia đình tôi chưa chuyển lên Hà Nội ở. Chiều chiều, cha tôi dẫn con gái đi dọc triền đê nhìn đồng quê sông nước. Hình ảnh cha vận sắc phục nhà binh, đeo quân hàm đỏ chói, bàn tay to dầy thô dắt đứa con gái nhỏ bé lích chích đi tha thẩn, nhàn hạ, thanh bình trên triền đê đầy hoa cỏ may cứ đi theo chị tôi suốt tuổi thơ đến bây giờ. Nhưng, ám ảnh, sợ hãi nhất là khi cha khoác ba lô trả phép. Ngày ấy, bên chiến trường Căm pu chia đánh bọn Pôn Pốt vẫn đang ác liệt. Cha phải đi, bên ấy có nhiều việc đang chờ. Con gái và cha vừa ấm hơi, quen nhau thì cha đã ra đi. Cha không muốn mẹ đưa ra tận ga tàu, cha sợ những giọt nước mắt sụt sùi. Mẹ và chị tôi tiễn chân cha ra đầu làng. Cha âu yếm nhìn vợ, rồi ôm hôn con gái; cha bảo mẹ tôi: “Em và con về đi.” Cha thả con gái xuống và quay lưng rảo bước; những bước chân dài đạp trên đá mạt rào rạo, vội vã, thỉnh thoảng quay lại vẫy vẫy tay. Bỗng chị tôi khóc thét lên và cùn cụt chạy theo cha. Cha tôi quay lại ôm choàng lấy con gái. Nước mắt chị tôi nhoen nhoét vào gương mặt dãi dầu từng trải của cha. Mẹ tôi bảo: “Hay anh ở lại, mai hãy đi.” Cha tôi bảo: “Em đừng buồn. Anh mà ở lại thì anh không đi được nữa. Thôi nào con, cho bố đi nào.” Cha chuyền tay trao con gái cho vợ; rồi quay gót. Lần này, bước chân ông quả quyết, thật nhanh, không ngoái đầu nhìn lại. Mẹ và chị tôi thầm thũi khóc nhìn bóng cha tôi cứ xa dần, mờ dần.
Hầu như tôi không có kỷ niệm ấu thơ với cha. Cha nhẹ nhàng với con gái bao nhiêu thì nghiêm khắc với con trai bấy nhiêu. Hễ lần nào tôi đi học luyện thi về là cha hỏi han từng li từng tí: "Hôm nay con học môn gì? Con có tiếp thu được không?..." Tất nhiên, tôi khó chịu ra mặt, trả lời qua loa đôi chút. Lúc cha chưa về, mẹ chẳng bao giờ xét nét tôi như thế.
Mẹ tôi đi làm, buổi sáng nào nhanh cũng hết ba mươi phút trang điểm. Có hôm mẹ mặc váy ngắn trên đầu gối; vai mẹ để trần, môi và móng tay tô màu trầm. Cha bảo mẹ, giọng buồn buồn, nhưng kiên quyết lắm: "Em còn trẻ trung gì nữa đâu. Để đôi vai trần cho đám đàn ông nhìn, chướng lắm." Mẹ không nói gì. Chỉ thấy sau hôm đó, mẹ mặc đồ dài tay, cao cổ và không bao giờ đụng đến váy. Nhẫn mặt đá, dây chuyền, vòng ngọc... mẹ không đeo bỏ tất cả vào hộp... niêm phong. Mẹ ngoan quá, biết nghe lời chồng, biết hạ cơn nhiệt của người mình thương yêu. Nhưng tôi đã nhầm, mẹ chống đối cha theo kiểu tù nhân đồng tâm... tuyệt thực.
Một tuần sau ngày cha thiết quân luật, tôi cố tình quên để chuông đồng hồ đánh báo ngủ 10 tiếng. Tôi miệt mài rồi bị cuốn hút bởi mấy nhân vật trong trò chơi Võ lâm truyền kỳ với những Thiếu lâm, Võ Đang, Đường môn... đầy máu lửa. Cha đến đằng sau mà tôi chẳng hề hay biết. Đang hào hứng, tôi như lên đồng cùng Võ Đang thì cha tắt - bật ổ cắm dây điện ba lần, màn hình tắt ngúm. Tôi sửng sốt ngước nhìn lên. Cha nghiêm nét mặt, buông lời lạnh tanh, kiên quyết: "Cha đã nói con bao nhiêu lần rồi? Về phòng ngay. Đi ngủ". Nghẹn cổ. Chân bước nặng như đeo đá, tôi còn nghe được tiếng mẹ khóc thút thít vọng ra qua cửa buồng ngủ. Tôi chui vào màn cứ tưởng đang ở tù.
Nhà tôi như trại lính, mà cha là vị tướng chỉ huy cao nhất. Cha bảo: "Đừng để cái thân lười nhác. Lao động cho khỏe người con ạ." Cha bắt chị em tôi phải làm những việc vặt mà trước đó chẳng bao giờ phải mó tay vào: quét nhà, lau bàn ghế, cọ rửa phòng vệ sinh... Ngày trước, mẹ thuê ô sin mỗi tuần hai lần đến lau chùi toàn bộ căn nhà để anh em tôi có thời gian học. Nhưng mẹ nào có biết tôi đã lơ là việc học từ lâu lắm rồi. Về nhà tôi sống với thế giới Võ lâm truyền kỳ, bài tập cô giáo ra mười bài thì bỏ chín. Đến lớp lại ngồi mơ màng nhìn mây nhìn lá cây ngoài cửa sổ, và thường ngủ gà gật vì thức khuya. Kiểm tra thì toàn quay cóp đứa ngồi bên cạnh; lúc “quay phim” được thì điểm 9 điểm 10 đỏ tươi; lúc thầy cô coi thi gắt quá thì điểm 2 điểm 3 xám ngắt. Lại một thi đại học sắp đến gần mà trong đầu tôi kiến thức thực chất gần như là số 0.
Thằng con lêu lổng dần dần hiện lên rõ nét trong đôi mắt cha quen nhìn lính tráng chỉnh tề răm rắp. Cha giận lắm. Ông thở dài, trách mắng tôi mải chơi không biết thương mẹ. Cha giận cả mẹ vì không để ý gì đến con cái, tối ngày chỉ ăn diện.
Mọi nếp sống tự do đều thay đổi, tôi có cảm giác bị gông cùm, lẽ dĩ nhiên tôi bực mình và khó chịu lắm. Tự nhiên có một ông già xa xưa, cũ kĩ, khó tính như từ trong chuyện cổ tích đi ra làm đảo lộn cả cuộc sống của mình thì bố ai chịu được. Quả thật, cha là "người âm lịch" hết nói và nhiều khi rất buồn cười và đáng thương hơn giận. Cha như ông già Khốt ta bít đi vắng xa trái đất mấy trăm năm nay bỗng dưng nhớ quê trở lại. Nhiều lúc cha làm mẹ con tôi phát cười đến rung rốn vì sự quê mùa của ông. Lọ sữa tắm Flex đượm mùi nhân sâm mát da thơm thịt, giá tám trăm nghìn đồng của mẹ thì cha lấy ra gội đầu. Nhanh hết quá, mẹ không biết cứ cằn nhằn cái Mai trẻ con sao dùng sữa tắm của người lớn. Xoong chảo trong nhà, cha lấy búi giẻ sắt đánh làm bay cả lớp mạ chống dính. Cha thích nghe các bài hát Hành quân đêm, Lá đỏ, Hãy yên lòng mẹ ơi... và các điệu chèo làng Côi Trì. Còn chúng tôi thích nghe nhạc rốc thì cha bảo tắt đi chờ cha sang nhà bạn đánh cờ tướng thì hãy mở kẻo rác tai cha...
Chiều muộn trên thành phố. ánh nắng cuối ngày sắp tắt trên những khối nhà bê tông thì đứa bạn gái cùng lớp tôi đến chơi. Cha tôi không thiện cảm với cái mặt lấc cấc và cái đầu cắt tóc ngắn dựng đứng, nhuộm đỏ hồng như cầu thủ Giôn mar người Thụy Điển. Của đáng tội, con bé cũng hơi bất nhã vì áo lưới ngắn tũn hở cả cái rốn lồi đeo vòng khuyên bạc (nhưng cha không biết nó đang là mốt bây giờ). Vừa đến cổng nó tưởng như mọi khi bấm chuông inh ỏi. Cha tôi ra mở cổng - ông đại tá về hưu ra đón khách; thấy nó, chưa gì ông đã phủ đầu, hỏi dồn dập như bắn súng liên thanh: "Cháu tìm ai? Cháu con cái nhà ai? Cháu đã là Đoàn viên thanh niên cộng sản chưa?...". Sau một hồi tra lên hỏi xuống, căn vặn kĩ càng ông mới cho nó vào nhà. Cứ tưởng yên chuyện rồi, nhưng không ngờ ông chẳng để cho chúng tôi một không gian của riêng mình. Ông bảo hai đứa tôi ngồi ở phòng khách nói chuyện đoàng hoàng. Ông xách phích nước ân cần đưa cho tôi pha nước mời bạn uống. Ông mở toang chính, cửa sổ cho ánh sáng tràn vào... cứ như sợ chúng tôi làm gì mờ ám trong bóng tối. Hai đứa chúng tôi nói chuyện mà cứ mắt la mày lét ngó trước nhìn sau. Thỉnh thoảng cha tôi lại đảo qua một tí, có ý như nhắc nhở "sắp thi đại học đến nơi rồi, cháu về đi cho con bác học bài". Ngày cha chưa về, tôi đưa bạn gái lên phòng riêng chơi cả buổi có chuyện gì xảy ra đâu. Cha tôi phòng xa quá, ông đem cách đánh nhà binh về phòng bị ngay cả trong nhà mình.
Đến tận lúc về, con bé bạn tôi còn chưa hết hãi:
- Khiếp! Ông già mày ghê quá. Hỏi tao mà cứ như mật thám hỏi cung các chiến sĩ cộng sản trong nhà tù đế quốc thực dân ấy.
- Bố tao nghiêm thế. Nhưng mà thương vợ con và mọi người lắm.
- Tao đếch thích kiểu thương ấy. Bận sau nếu có chuyện gì tao với mày ra quán cà phê cho tiện.
Cánh cổng khép lại. Tôi mang theo nỗi ấm ức của thằng con trai mới lớn:
- Cha cứ làm kiểu này thì con hết bạn, hết chỗ chơi. Từ bây giờ có giời bảo cũng chẵng đứa nào dám đến nhà mình cả.
- Mẹ con con ăn uống, đi lại, ngủ nghỉ, chơi bời không ổn chút nào. Ma tuý, tệ nạn xã hội đầy ra đấy. Các con còn non nớt. Rất dễ sa ngã.
Tôi tức quá cãi lại :
- Bao nhiêu năm qua không có cha, mẹ con con vẫn sống tốt cơ mà. Cả cuộc đời cha ở trong quân đội, ngoài việc sinh bọn con ra cha đã làm được cái gì cho cái nhà này chưa mà cha trách mắng mọi người...
Nói chưa dứt, mắt tôi đã hoa cả lên. Một cái tát nổ đom đóm mắt từ bàn tay thô ráp quen cầm súng nhà binh. Tôi ngã dúi. Cha quát to:
- Chả nhẽ cha đi bộ đội bao nhiêu năm cống hiến cho đất nước là để cho con nói với cha bằng cái giọng chợ giời ấy hả? Bà ấy đâu rồi? Con hư tại mẹ.
Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà. Bà tôi mất từ lâu lắm rồi còn mẹ ở cửa hàng mỹ phẩm vẫn chưa về, chị Mai ngoan ngoãn thì đi học thêm Anh văn. Dường như lòng tự trọng của đứa con trai mới lớn chấm hết. Tất cả kìm hãm, dồn nén sự khó chịu của tôi từ lúc cha về đã quá đủ. Cha - một người cha đi tăm tăm biền biệt bao nhiêu năm để rồi bỗng dưng về nhà xới tung lên mọi thứ với kỷ luật nhà binh. Tôi nói với cha:
- Thôi cha! Đừng bao giờ nói với con về những ngày tháng cha đi bộ đội. Thời oai hùng xa lắm lắm rồi, cha ạ.
Sắc mặt của cha tôi đỏ hồng lại tím nhanh dễ sợ. Môi ông lắp bắp:
- Mà... mày... nói...ca... cái... gì?
Ông ôm đầu, đau đớn, ngồi phịch xuống giường gấp.
- Chẳng có gì cả! Con nói là - Tôi nhấn mạnh từng chữ - Con chán ghét cha và cả những điều cha nghĩ, những gì cha nói và cha làm. Cha đã biến cả nhà ta thành trại lính.
Tôi cãi lại cha và tôi lao khỏi nhà. Tôi bỏ đi lang thang trên phố.
Đêm tôi không về. Sau này, khi “trời yên biển lặng”, tôi mới biết: Suốt đêm ấy, cha lo lắng sợ tôi dạt vòm đi bụi đời. Ông điện thoại báo hung tin về thằng con quý tử bỏ nhà cho bạn bè, đồng đội đã phục viên, xuất ngũ, nghỉ hưu biết. Người nọ vội vã gọi người kia lan truyền theo cấp số nhân; như thể chiến tranh sắp nổ ra, huy động gần hết một “tiểu đoàn quân” đi tìm... tôi.